Đưa Đồng bằng sông Hồng trở thành đầu tàu kinh tế, động lực tăng trưởng của cả nước
21 chỉ tiêu và 10 nhóm giải pháp phát triển Đồng bằng sông Hồng
Sáng 12/2, tại TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng với chủ đề "Liên kết phát triển - Đổi mới sáng tạo - Xanh và Bền vững".
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị |
Cùng dự hội nghị có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan trung ương, lãnh đạo địa phương 11 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng, đại diện các đại sứ quán, tổ chức quốc tế tại Việt Nam cùng các đối tác phát triển, các hiệp hội doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên tham dự và có bài phát biểu quan trọng tại hội nghị.
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, ngày 23/11, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 30 về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, ngày 8/2/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14 về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị trên cơ sở bám sát các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết số 30, nhằm xây dựng và phát triển vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030: “Trở thành vùng phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn có giá trị kinh tế cao; trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, đô thị thông minh, có tính kết nối cao. Xây dựng Thủ đô Hà Nội “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”, trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước, phấn đấu ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực…”.
Và tầm nhìn đến năm 2045: “Đồng bằng Sông Hồng là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái; là trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới; trung tâm hàng đầu của cả nước về văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, thông minh. Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới, thông minh, xanh, bền vững. Người dân có thu nhập cao, cuộc sống thịnh vượng, hạnh phúc... Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố kết nối toàn cầu, ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và thế giới.”
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên tham dự có bài phát biểu tại hội nghị |
Về mục tiêu, Chương trình hành động xác định 21 chỉ tiêu cụ thể về kinh tế, xã hội và môi trường phấn đấu đạt đến năm 2030, trong đó có một số chỉ tiêu quan trọng như: Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt khoảng 9%; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 274 triệu đồng/năm; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt trên 7%; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm khoảng 1,5%/năm. Đạt 32 giường bệnh và 11 bác sĩ/vạn dân. Giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính.
Chính phủ cũng đề ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Bên cạnh đó, Chương trình hành động của Chính phủ cũng đã đề ra 36 nhiệm vụ cụ thể và 20 dự án đầu tư kết cấu hạ tầng vùng Đồng bằng Sông Hồng để giúp vùng phát triển đột phá, gồm: Các dự án xây dựng đường cao tốc, đường sắt, đường thuỷ có tính kết nối vùng, các dự án nâng cấp các cảng hàng không, đầu tư xây dựng mới cảng biển trong vùng; đồng thời đã phân công cho các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện với lộ trình và thời gian thực hiện cụ thể.
Cơ hội phát triển các ngành công nghiệp cao theo hướng hiện đại
Tham dự và phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết: Vùng Đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của quốc gia với hạt nhân là Thủ đô Hà Nội; có vai trò là 1 trong 2 “đầu tàu” kinh tế, động lực phát triển hàng đầu của cả nước với 3 cực tăng trưởng là Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các địa phương trong vùng đã khai thác khá hiệu quả các tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của cả nước; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng cao, cơ cấu kinh tế vùng có sự chuyển dịch tích cực với vai trò trụ cột là khu vực công nghiệp và thương mại, dịch vụ.
Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương tham quan các gian hàng trưng bày trong khuôn khổ hội nghị |
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất công nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng và chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp, thâm dụng lao động và đất đai; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao trong công nghiệp chế biến còn ở mức thấp và phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp FDI; phân bố không gian phát triển công nghiệp chưa phù hợp và thiếu tính kết nối, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành.
Để khắc phục các tồn tại, hạn chế; tiếp tục khai thác, phát huy có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của vùng, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp cao theo hướng hiện đại, công nghệ cao, từng bước tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã đề xuất 5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: Thứ nhất, đẩy nhanh việc hoàn thiện, trình phê duyệt quy hoạch vùng và quy hoạch các địa phương thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, phù hợp với định hướng Quy hoạch tổng thể và các quy hoạch ngành quốc gia, làm cơ sở xây dựng, triển khai có hiệu quả các chiến lược, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực tại địa phương; đồng thời, tổ chức không gian phát triển hợp lý, bảo đảm cân bằng, bền vững, kết nối hiệu quả các hành lang, vành đai kinh tế, các cực tăng trưởng và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông để khơi thông các điểm nghẽn về hạ tầng, thúc đẩy liên kết Vùng và khai thác, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội về vị trí địa kinh tế, chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng và của mỗi địa phương.
Thứ hai, tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách của địa phương, bảo đảm đồng bộ, đủ mạnh, khả thi, phù hợp với các quy định của nhà nước để đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn; đồng thời, chú trọng nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền cho thực hiện thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới, có tính đột phá, phù hợp với các cam kết quốc tế để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thể vượt trội của Vùng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ các ngành công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh, từng bước tham gia sâu, toàn diện vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là đầu tư vào hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp, khu kinh tế theo hướng hiện đại, hệ thống logistics đồng bộ, nhằm tăng cường liên kết vùng, thúc đẩy hình thành, phát triển các vành đai công nghiệp, các cụm liên kết ngành và hệ sinh thái công nghiệp, dịch vụ, đô thị ở các địa phương có lợi thế để tập trung thu hút các dự án sản xuất công nghiệp quy mô lớn, có công nghệ và giá trị gia tăng cao, tạo động lực phát triển nhanh và bền vững, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong vùng và cả nước.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, gắn với tổ chức phân bố không gian phát triển công nghiệp phù hợp với tiềm năng, lợi thế phát triển của từng tiểu vùng và từng địa phương; theo đó, các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên) tập trung phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, có lợi thế cạnh tranh như: Công nghiệp điện tử, công nghệ số, công nghiệp phần mềm, trí tuệ nhân tạo, sản xuất ôtô, công nghiệp hỗ trợ; đồng thời, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao, có tính chất “dẫn đường” (như: Sản xuất chíp, bán dẫn, rô bốt, công nghiệp năng lượng tái tạo, vật liệu mới). Đối với các địa phương thuộc tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hôn (như các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình) tập trung phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản (nhất là chế biến nông, lâm, thuỷ sản công nghệ cao); cơ khí, chế tạo, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và các ngành công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch gắn với phát triển các khu kinh tế, khu du lịch ven biển; đồng thời, chú trọng quy hoạch vùng trồng, vùng nuôi, tổ chức sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn, tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc để tạo nguồn hàng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu chính ngạch.
Thứ năm, tập trung thúc đẩy ở mức cao nhất chương trình đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, doanh nghiệp số để vùng thực sự đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng công nghệ cao, công nghệ số. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có tay nghề và trình độ quản lý đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng; đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh, đi đầu trong cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian và tiết giảm thực chất chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và lợi thế thu hút đầu tư của các địa phương trong vùng.
Đặc biệt, theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại, thời gian tới Bộ Công Thương sẽ tập trung rà soát, tham mưu hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp theo định hướng tại Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hóa đất nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật Phát triển công nghiệp với nội dung cốt lõi là các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất để các địa phương, các vùng kinh tế tổ chức thực hiện; đồng thời, tiếp tục rà soát, tham mưu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những cơ chế, chính sách còn bất cập, chồng chéo, cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi thông và giải phóng các nguồn lực, nhất là nguồn xã hội hóa trong đầu tư phát triển công nghiệp và thương mại.
Để thực hiện Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ, Bộ Công Thương cũng đề nghị cần sớm có cơ chế điều phối vùng và cơ chế đối thoại thường xuyên, đột xuất giữa các bộ, ngành với các địa phương nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của vùng Đồng bằng sông Hồng cho phát triển kinh tế-xã hội góp phần thực hiện thắng lợi, toàn diện các mục tiêu Nghị quyết của Bộ Chính trị đã đề ra. |