Kết nối hệ thống truy xuất nguồn gốc số hóa chuỗi giá trị sản phẩm
Nâng cao nhận thức cho thanh niên về truy xuất nguồn gốc trong bối cảnh số Truy xuất nguồn gốc, ứng dụng nền tảng số trong hỗ trợ kết nối, tiêu thụ nông sản Việt |
Nền tảng cho việc sản xuất, lưu thông
Trước những thách thức rất lớn từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động bởi đại dịch Covid-19, chuyển đổi số trong sản xuất kinh doanh đã được Đảng, Chính phủ xác định là giải pháp, xu hướng tất yếu để các đơn vị sản xuất kinh doanh nâng cao năng lực, lợi thế cạnh tranh, tồn tại và phát triển. TXNG là giải pháp thúc đẩy việc tiêu thụ nông sản của bà con nông dân bằng các nền tảng số, tích hợp giá trị, tạo sự thuận lợi cho người nông dân, hợp tác xã, người tiêu dùng. Đồng thời, góp phần gia tăng giá trị của nông sản của các địa phương, góp phần thiết thực tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong giai đoạn mới theo hướng công khai, minh bạch, bình đẳng.
Để đón đầu xu thế, năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống TXNG tại Quyết định số 100/QĐ-TTg ngày 19/01/2019 (Đề án 100) do Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) chủ trì triển khai. Qua 3 năm, Bộ KH&CN đã xây dựng hơn 20 tiêu chuẩn về TXNG và sắp đưa vào vận hành “Cổng thông tin TXNG sản phẩm hàng hoá quốc gia” trong năm 2022. Ông Lê Xuân Định - Thứ trưởng Bộ KH&CN - nhận định, đây sẽ là một “đám mây ẩn” cho phép các nhà cung cấp giải pháp TXNG và tất cả các bên tham gia trong chuỗi cung ứng cùng cơ quan quản lý kết nối và chia sẻ thông tin. Đầu năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2022/NĐ-CP bổ sung thêm quy định quản lý về TXNG sản phẩm, hàng hóa vào Nghị định số 74/2018/NĐ-CP. Theo đó, Bộ KH&CN giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hoạt động này.
Cùng với đó, thực hiện Quyết định 100, ngày 28/7/2020, Bộ Công Thương đã ra Quyết định số 1978/QĐ-BCT ban hành Kế hoạch thực hiện “Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống TXNG sản phẩm, hàng hóa giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, Bộ Công Thương đề xuất danh mục các nhóm sản phẩm, hàng hóa bắt buộc áp dụng TXNG; liên kết các hệ thống TXNG, cơ sở dữ liệu sản phẩm, hàng hóa của mình với Cổng thông tin TXNG quốc gia và hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng TXNG trong xúc tiến thương mại.
Truy xuất nguồn gốc là nền tảng cho việc sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế 4.0 |
Giai đoạn 2021-2030, với mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, giá trị gia tăng cao, sản xuất theo chuỗi giá trị đảm bảo các nguyên tắc bền vững, trách nhiệm và minh bạch, thực hiện Đề án 100, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã xác định việc tăng cường ứng dụng công nghệ trong sản xuất, chế biến, xây dựng và vận hành hệ thống TXNG nông sản là một trong những định hướng quan trọng để thực hiện mục tiêu đẩy mạnh thị trường trong nước và xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng cho ngành. Bộ cũng đã triển khai cấp mã số vùng trồng và giám sát vùng trồng, hỗ trợ các cơ sở sản xuất ứng dụng các hệ thống TXNG thông qua mã QR và kiểm tra, TXNG với sản phẩm không đảm bảo an toàn thực phẩm đúng quy định.
Chia sẻ câu chuyện quản lý, duy trì cấp mã số vùng trồng, ông Lê Nhật Thành- Giám đốc Trung tâm kiểm định thực vật sau nhập khẩu I, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) thông tin, trước đây, muốn đàm phán để cho quả vải sang Mỹ phải nộp hồ sơ từ năm 1998 nhưng đến năm 2015, Mỹ mới chính thức cho phép quả vải được xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, “những năm gần đây, việc đàm phán đã ngắn hơn nhiều do chúng ta vừa có kinh nghiệm, vừa minh bạch, sản xuất nông nghiệp đã có uy tín trên thị trường quốc tế. Chỉ cần 2-3 năm là chúng ta có thể mở cửa được thị trường trái cây sang các nước” - ông Thành thông tin.
Theo ông Lê Nhật Thành, việc này thể hiện sự quản lý minh bạch, rõ ràng đối với vùng trồng, đáp ứng các điều kiện bắt buộc tuân thủ trong thỏa thuận hợp tác kí kết giữa hai cơ quan bảo vệ thực vật quốc gia về chương trình làm việc/nghị định thư xuất khẩu quả tươi từ Việt Nam sang nước nhập khẩu tương ứng có yêu cầu.
Cùng với đó, TXNG sản phẩm và quản lý được những loài dịch hại là đối tượng kiểm dịch thực vật của nước nhập khẩu theo yêu cầu nhập khẩu của các nước; kiểm soát được việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên nông sản xuất khẩu. Từ đó, nâng cao uy tín của nông sản Việt Nam vào thị trường có giá trị cao để việc đàm phán mở cửa hàng nông sản vào các thị trường khác được thuận lợi. Hỗ trợ các cơ quan khác tổ chức xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam được thuận lợi.
Thúc đẩy tiêu thụ nông sản bằng các nền tảng số
Thông tin về hoạt động xuất khẩu mặt hàng trái cây tươi sang thị trường Mỹ và Trung Quốc, bà Ngô Tường Vy - Tổng giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu (Bến Tre) - cho biết, Mỹ là thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất hiện nay của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu trên 2,3 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện mặt hàng trái cây tươi xuất khẩu sang Mỹ còn nhiều hạn chế, khó khăn do quy định của thị trường Mỹ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, về TXNG, thực hiện mã số vùng trồng, một số địa phương vẫn chưa dành sự quan tâm đúng mức đối với công tác kiểm tra, giám sát và quản lý vùng trồng; cán bộ kỹ thuật ở một vài địa phương còn chưa đủ năng lực kiểm tra đồng đều; chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý các trường hợp vi phạm về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói…
Bà Ngô Tường Vy cũng chia sẻ thêm, đối với sản phẩm sầu riêng xuất khẩu sang Trung Quốc - thị trường xuất khẩu lớn nhất đứng thứ hai (sau Mỹ) của Việt Nam cũng có nhiều khó khăn. Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu sầu riêng của Thái Lan, Maylaysia. Sầu riêng muốn xuất khẩu chính ngạch được sang thị trường Trung Quốc phải được cấp mã số vùng trồng và nhà đóng gói, tuân thủ giống như xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Giới thiệu hệ thống Truy xuất nguồn gốc iTrace247 do Bộ Công Thương phát triển, bà Nguyễn Thị Minh Thúy - Giám đốc Trung tâm Ứng dụng công nghệ thông tin xúc tiến thương mại, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) - cho biết: Hệ thống TXNG iTrace247 đang dần hoàn thành phiên bản 2.0 và sẽ được phổ biến đến doanh nghiệp, các tổ chức về cung ứng dịch vụ TXNG. Hệ thống này cũng sẵn sàng kết nối, trở thành một phần của Cổng thông tin TXNG sản phẩm hàng hóa quốc gia.
Bà Nguyễn Thị Minh Thúy thông tin, việc ứng dụng công nghệ số trong lưu thông hàng hoá là một bước tiến cần có cho các sản phẩm nông sản tại Việt Nam, đó là Hệ sinh thái xúc tiến thương mại số Decobiz. Hệ sinh thái này là kết cấu hạ tầng mềm trong thương mại do Chính phủ đầu tư, phát triển gồm các nền tảng cơ bản dùng chung cho nền kinh tế như hội chợ, triển lãm số, kết nối giao thương thông minh, cơ sở dữ liệu chuyên ngành xúc tiến thương mại, tư vấn - huấn luyện trực tuyến… Đặc biệt, liên quan đến những tiêu chí trong hoạt động thương mại và xuất khẩu hàng hoá như TXNG cũng sẽ được tích hợp trong hệ sinh thái này.
Ông Bùi Bá Chính - Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Mã số mã vạch quốc gia, Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Bộ KH&CN - thông tin, với mục tiêu kết nối - chia sẻ và bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng, Cổng thông tin TXNG sản phẩm hàng hóa quốc gia đang được Trung tâm mã số mã vạch Quốc gia triển khai xây dựng, dự kiến sẽ ra mắt vào cuối năm 2022.
Bên cạnh việc xây dựng các tiêu chuẩn, các hành lang pháp lý như thông tin, nghị định, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TXNG, thừa nhận kết quả TXNG lẫn nhau, cổng thông tin này đảm bảo vai trò kết nối hai chiều giữa các bộ đối với các sản phẩm nông sản, thuốc chữa bệnh, những sản phẩm Chính phủ yêu cầu ưu tiên TXNG. Ngoài kết nối với các bộ, ngành, cổng thông tin này còn kết nối với các hệ thống TXNG của các địa phương, doanh nghiệp, tổ chức, các đơn vị giải pháp, cũng như các hệ thống, ứng dụng của Bộ KH&CN...
Cũng theo ông Chính, TXNG những năm gần đây đã từng bước góp phần chuyển đổi số trên thực tế doanh nghiệp, hỗ trợ quản trị nội bộ nhằm tối ưu hiệu quả hoạt động, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Tạo cơ sở dữ liệu được cập nhật và bổ sung theo thời gian thực giúp thống kê báo cáo chính xác phục vụ hiệu quả cho việc xây dựng và thực thi chiến lực, chính sách, kế hoạch. TXNG cũng giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế thương hiệu, tạo dựng niềm tin với người tiêu dùng.