Thanh Hóa: Giải pháp nâng cao chất lượng vùng nguyên liệu sắn
Gạo nếp Cay Nọi: Từ đặc sản địa phương thành sản phẩm OCOP Thanh Hóa: Liên kết sản xuất lúa nếp đạt hiệu quả cao |
Tập trung phát triển vùng nguyên liệu
Khu vực trung du và miền núi Thanh Hóa có khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển cây sắn. Cây sắn cũng được xác định là một trong những cây trồng hàng hóa chủ lực, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn tỉnh. Do đó, thời gian qua, các địa phương đã tập trung khuyến khích, hỗ trợ người dân mở rộng diện tích sắn làm nguyên liệu chế biến. Từ đó, tạo ra vùng nguyên liệu bền vững có năng suất, chất lượng cao; góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc trong vùng dự án.
Khu vực trung du và miền núi Thanh Hóa có khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển cây sắn (Ảnh: T.H) |
Hằng năm, toàn tỉnh Thanh Hóa phát triển được từ 13.000 - 15.000 ha sắn, với tổng sản lượng khoảng 200.000 tấn làm nguyên liệu phục vụ 5 nhà máy chế biến tinh bột sắn trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, diện tích và năng suất trên mới đảm bảo được 60% công suất nhà máy, buộc các nhà máy phải tổ chức thu mua ở các tỉnh khác để đảm bảo sản xuất.
Để bảo đảm nguồn nguyên liệu cho hoạt động chế biến, thời gian qua đã có một số nhà máy chế biến tinh bột sắn chủ động đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, như: Nhà máy Chế biến tinh bột sắn Phúc Thịnh (Ngọc Lặc) đã đầu tư liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm cho người dân các huyện: Ngọc Lặc, Thường Xuân, Thọ Xuân; Công ty TNHH Chế biến nông - lâm sản xuất khẩu Như Xuân đầu tư ứng trước vật tư, phân bón, công chăm sóc, chuyển giao kỹ thuật trồng, chăm sóc cho người dân; đồng thời ký hợp đồng bao tiêu sắn tươi theo hướng điều chỉnh giá thị trường, hài hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp...
Tuy nhiên, theo đánh giá của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, trình độ sản xuất của người dân tại các vùng trồng sắn còn lạc hậu, sản xuất manh mún, chưa áp dụng các kỹ thuật sản xuất mới nên năng suất, sản lượng còn hạn chế. Bên cạnh đó, vài năm trở lại đây, nhiều diện tích trồng sắn nguyên liệu xuất hiện bệnh khảm lá vi-rút hại sắn, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và chất lượng khiến người dân càng không mặn mà với loại cây trồng này.
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), niên vụ 2023 - 2024 toàn tỉnh có hơn 11.000 ha sắn nguyên liệu. Tuy nhiên, có khoảng 965 ha sắn nguyên liệu bị nhiễm vi-rút bệnh khảm lá sắn. Bệnh đang gây hại nhẹ đến trung bình, cục bộ hại nặng tại các huyện: Thường Xuân, Ngọc Lặc, Như Xuân, Như Thanh, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Bá Thước. Mặc dù Sở NN&PTNT và các địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp phòng trừ, khắc phục, song diện tích nhiễm bệnh vẫn có xu hướng tăng cao.
Thời gian qua, ngành nông nghiệp đã hướng dẫn các địa phương thường xuyên kiểm tra, theo dõi sự phát triển của cây sắn để có biện pháp phòng trừ sâu bệnh hiệu quả; thực hiện tiêu hủy đối với diện tích sắn nhiễm bệnh nặng và đưa những giống sắn mới có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt vào sản xuất ở những vụ tiếp theo.
Cần triển khai đồng bộ các giải pháp
Theo đánh giá của các chuyên gia, để cây sắn phát triển bền vững, ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa cần có các giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch ngắn hạn và tầm nhìn dài hạn về cây sắn và xác định đây là cây chủ lực quốc gia. Có chính sách và chương trình cụ thể về giống, bảo vệ thực vật và những biện pháp phòng chống dịch, bao vây dịch bệnh đối với cây sắn.
Thứ hai, đối với giống sắn cần phải xúc tiến những bộ giống mới có năng suất và khả năng kháng bệnh cao, từng bước chuyển giao thay thế dần giống cũ. Bộ NN&PTNN và Viện Di truyền Nông nghiệp đã công bố 2 bộ giống sắn mới HN3 và HN5. Đây là 2 bộ giống đã được khảo nghiệm và có kết luận về hiệu quả và khả năng kháng bệnh. Tăng cường pháp lệnh bảo vệ thực vật trong quản lý giống, xử lý nghiêm các doanh nghiệp, cá nhân tự phát nhập giống không rõ nguồn gốc chưa được phép chuyển giao của Bộ NN&PTNN vào địa phương.
Băng chuyền đưa sắn nguyên liệu vào chế biến của Nhà máy chế biến tinh bột sắn Phúc Thịnh (Ảnh: Khắc Công) |
Thứ ba, các địa phương có nhà máy chế biến sắn có thể yêu cầu các nhà máy có chính sách đầu tư thâm canh vùng nguyên liệu để nâng cao năng suất cây trồng và hiệu quả sử dụng đất đai mà không cần mở rộng diện tích. Đặc biệt phải bao tiêu sản phẩm sau đầu tư cho bà con nông dân, coi đây như điều kiện cần và đủ chấp thuận cho nhà máy hoạt động sản xuất. Bởi một dự án kinh tế phải đạt được 3 mục tiêu cơ bản là: Hiệu quả kinh tế cho nhà đầu tư, hiệu quả xã hội cho dân cư trong vùng dự án và thân thiện với môi trường.
Thứ tư, về chính sách đầu tư, nên dành tỷ trọng đầu tư hợp lý đối với các dự án đầu tư chế biến sau thu hoạch, nhất là đối với sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, vì các dự án này đều bằng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, chủ yếu đầu tư ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nên hệ số rủi ro lớn. Trong khi đó, những dự án được đầu tư ở khu công nghiệp lại có chính sách đầu tư rất ưu ái.
Sản phẩm của các nhà máy sản xuất ra chủ yếu là xuất khẩu, tuy nhiên, chi phí bán hàng lớn làm mất khả năng cạnh tranh. Để khắc phục sự bất cập này, cần thiết phải hình thành các trung tâm logistic nhằm giảm thiểu chi phí bán hàng không những cho ngành sắn mà cho những sản phẩm nông sản khác.
Cây sắn đã được Bộ NN&PTNT đưa vào danh sách 13 cây trồng chủ lực quốc gia và được Bộ Công Thương đưa vào danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với đặc điểm khí hậu và địa hình của tỉnh Thanh Hóa, cây sắn có nhiều dư địa và không gian để phát triển. |