Đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam: Góp phần cơ cấu lại thị phần vận tải hành khách
Tại buổi trao đổi, cung cấp thông tin về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam do Bộ Giao thông Vận tải tổ chức vào chiều 1/10, theo Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Danh Huy, đây là dự án đặc biệt, quy mô lớn, chưa từng có tiền lệ. Với dự án này, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Quá trình nghiên cứu dự án được triển khai từ năm 2006 (trải qua 18 năm) với sự hỗ trợ của các tổ chức, tư vấn trong và ngoài nước.
Dự án tuyến đường sắt tốc độ cao trục Bắc-Nam được đầu tư xây dựng sẽ đáp ứng nhu cầu vận tải, góp phần tái cơ cấu thị phần vận tải trên hành lang Bắc-Nam một cách tối ưu, bền vững, tạo tiền đề, động lực cho phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
Quang cảnh buổi trao đổi về dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam vào chiều 1/10. Ảnh: D.A |
Theo đó, trong quá trình lập quy hoạch các lĩnh vực của ngành giao thông vận tải đã xem xét tiềm năng, lợi thế của từng phương thức để xây dựng kịch bản phát triển.
Nhấn mạnh về tầm quan trọng của dự án, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy nhận định đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao sẽ góp phần quan trọng giúp kéo giảm tai nạn giao thông, giảm các hệ lụy khác như giảm phát thải môi trường.
“Chúng ta đang “lấy dao mổ trâu đi mổ ruồi” khi hàng không đang phải nỗ lực duy trì các chặng bay cự ly dưới 500 km, giá thành không cõng nổi chi phí, phải lấy lợi nhuận từ chặng bay dài bù lỗ.
Tình trạng dùng “dao mổ ruồi đi mổ trâu” cũng đang diễn ra khi trên chặng Hà Nội - TP.Hồ Chí Minh vẫn có những chuyến xe vận tải khách chạy xuyên suốt bằng đường bộ. Nói cách khác, hàng không và đường bộ đang phải đảm nhận vận tải hành khách trên các cự ly không có ưu thế”, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy nói.
Thêm đó, đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao sẽ góp phần quan trọng trong cơ cấu lại thị phần vận tải hành khách giữa các phương thức theo hướng bền vững.
Đối với vận tải hành khách, cự ly ngắn (dưới 150km) ưu thế thuộc về đường bộ; Cự ly trung bình (150 - 800km) đường sắt tốc độ cao chiếm hoàn toàn ưu thế; Cự ly dài (trên 800km) thị phần chủ yếu thuộc về hàng không và một phần của đường sắt tốc độ cao.
“Như vậy, không phải đường sắt tốc độ cao sẽ triệt tiêu đường hàng không mà hai loại hình vận tải này sẽ bổ trợ cho nhau”, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy nhấn mạnh.
Nhìn vào Quy hoạch 5 chuyên ngành, từ nay đến 2050 hàng không vẫn thiếu “nguồn cung”. Khi có đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, hàng không sẽ “nhường lại” các chặng ngắn cho đường sắt tốc độ cao phát huy ưu thế.
Lúc ấy, hàng không sẽ tự tái cơ cấu, hạ tầng, cảng sân bay tập trung khai thác cho các chặng dài (trên 800km) là ưu thế của hàng không. Một lần nữa chúng tôi khẳng định, đường sắt tốc độ cao không làm triệt tiêu cơ hội phát triển của lĩnh vực nào.
Về công năng vận tải, đường sắt tốc độ cao trên thế giới chủ yếu chở khách và hàng hóa nhẹ. Đối với vận tải hàng hóa, đường biển/đường sông vận chuyển khối lượng lớn nhất, chi phí thấp nhất; đường sắt là phương thức vận chuyển khối lượng lớn, chi phí trung bình; đường bộ vận chuyển thuận lợi nhất, chi phí cao; hàng không vận chuyển nhanh nhất, chi phí cao nhất.
Với vận tải hành khách, cự ly ngắn dưới 150km ưu thế thuộc về đường bộ; cự ly trung bình 150-800km ưu thế thuộc về đường sắt tốc độ cao; cự ly dài trên 800km ưu thế thuộc về hàng không và đường sắt tốc độ cao.
“Đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam sẽ vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh và có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết,” lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải nhấn mạnh.
Về phạm vi, quy mô đầu tư, đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam sẽ bố trí 23 ga hành khách với cự ly trung bình khoảng 67 km, 5 ga hàng gắn với các đầu mối hàng hóa. Tuyến sẽ bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội), đi qua 20 tỉnh, thành phố và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP. Hồ Chí Minh).
Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, Bộ Giao thông vận tải kiến nghị tổng mức đầu tư dự án khoảng 67,34 tỷ USD, khởi công cuối năm 2027; phấn đấu hoàn thành toàn tuyến năm 2035.
Dự kiến nguồn vốn ngân sách Nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn để đầu tư hoàn thành dự án vào năm 2035, bố trí vốn trong khoảng 12 năm, mỗi năm bình quân khoảng 5,6 tỷ USD, tương đương khoảng 16,2% trong giai đoạn 2026-2030 nếu giữ nguyên tỷ lệ đầu tư công trung hạn như hiện nay.
Ngoài ra, Bộ Giao thông vận tải kiến nghị đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao với tốc độ thiết kế 350 km/giờ; tổng chiều dài 1.541 km; đường đôi, khổ 1.435 mm để đáp ứng tiêu chí hiện đại, đồng bộ, có tầm nhìn dài hạn, hiệu quả, phù hợp với điều kiện địa kinh tế nước ta và xu hướng trên thế giới; phù hợp với chủ trương Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII, Bộ Chính trị, Chính phủ.