Sửa Nghị định 24 theo hướng bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng
Tầm quan trọng của Nghị định 24
Trước năm 2012, cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng được thực hiện theo Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999 của Chính phủ. Khi đó, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 - 2012, nền kinh tế Việt Nam bước vào chu kỳ lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm kéo theo nhu cầu nắm giữ vàng tăng cao.
Sau 12 năm triển khai thực hiện Nghị định 24, thị trường vàng cơ bản đã được cân đối, không còn hiện tượng bất ổn như giai đoạn trước, có thể đánh giá là đạt được thành công rất lớn |
Nhưng với việc giá vàng thế giới biến động tăng mạnh, cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng giai đoạn này đã bộc lộ những bất cập và hạn chế. Cụ thể, các quy định khá thông thoáng, không phân tách rõ 3 thị trường (vàng miếng, vàng nguyên liệu và vàng trang sức, mỹ nghệ), không có các quy định quản lý, kiểm soát hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; vàng miếng được coi là hàng hóa thông thường và các quy định về chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng không thống nhất, còn phân tán, không rõ ràng, do vậy đã tạo nhiều kẽ hở trong quản lý.
Thị trường vàng trong và ngoài nước lúc này không ngừng biến động, tâm lý người dân dễ dàng bị xáo trộn và vô tình gây ra những "cơn sốt vàng" ảnh hưởng xấu lên tỷ giá chính thức USD/VND, tạo ra tình thế bất lợi tới thị trường ngoại tệ, dự trữ ngoại hối Nhà nước, bất ổn kinh tế vĩ mô.
Trước những bất cập của thị trường vàng giai đoạn 2008 - 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP (Nghị định 24) với 2 mục tiêu chính nhằm tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng, đặc biệt là thị trường vàng miếng; và hạn chế ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; đẩy lùi tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế.
Để thực hiện những mục tiêu trên, Nghị định 24 đã đưa ra 6 giải pháp cơ bản, trong số đó, nổi bật hơn cả là cơ chế Nhà nước thông qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN) độc quyền sản xuất vàng miếng, chỉ có NHNN được phép sản xuất vàng miếng.
Và, kể từ ngày 25/5/2012, không cho phép bất kỳ tổ chức, cá nhân nào được quyền sản xuất vàng miếng. Nhìn chung, đây là biện pháp quan trọng để kiểm soát chặt chẽ hoạt động sản xuất vàng miếng, lượng cung vàng miếng trên thị trường, đồng thời ngăn chặn tình trạng sản xuất vàng miếng từ vàng nguyên liệu nhập lậu. Từ đó hỗ trợ ổn định thị trường vàng đang diễn biến khó kiểm soát.
Bên cạnh đó, Nghị định 24 ra đời cũng là thời điểm NHNN triển khai tổ chức sản xuất vàng miếng thông qua việc thuê Công ty TNHH Vàng bạc đá quý Sài Gòn (Công ty SJC) trực thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh, gia công vàng miếng SJC cho NHNN. SJC sau đó nghiễm nhiên trở thành thương hiệu vàng quốc gia, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trên thị trường vàng.
Sau 12 năm triển khai thực hiện Nghị định 24, thị trường vàng cơ bản đã được cân đối, không còn hiện tượng bất ổn như giai đoạn trước, có thể đánh giá là đạt được thành công rất lớn. Tuy nhiên, thời gian qua xuất hiện tình trạng chênh lệch cao giữa giá vàng trong nước và thế giới, cũng như chênh lệch giữa vàng miếng SJC và các loại vàng miếng khác, phần nào đẩy giá vàng trong nước lên những ngưỡng giá kỷ lục, cao nhất trong lịch sử.
Bộc lộ những hạn chế
Là đơn vị duy nhất được sản xuất vàng miếng sau khi Nghị định 24 có hiệu lực, giữa lúc làn sóng tăng không ngừng của giá vàng trong nước ập tới cùng độ "vênh" rất lớn so với giá vàng quốc tế, bà Lê Thúy Hằng, Tổng Giám đốc Công ty SJC khẳng định, SJC không phải đơn vị thao túng hay làm giá vì giá vàng do cung - cầu thực tế của thị trường quyết định.
Lý giải về nguyên nhân chênh giá, bà Lê Thúy Hằng cho biết số lượng vàng trên thị trường còn rất ít, bởi có những năm, những thời điểm, giá nguyên liệu và giá vàng SJC thấp hơn hoặc bằng giá thị trường, các thương hiệu trong nước dùng vàng miếng của SJC để sản xuất nhẫn và nữ trang.
Đặc biệt, năm 2019, thị trường vàng xuất khẩu đi nước ngoài rất nhiều nên lượng vàng SJC trên thị trường hiện nay còn rất ít. Nguồn cung hiện tại không có trong khi nhu cầu thị trường tăng, do vậy tạo ra độ chênh về giá so với vàng thế giới.
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cũng nêu rõ, nguyên nhân của sự chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới là do chênh lệch giá nguyên liệu nhập khẩu và nguồn cung hạn chế. Từ năm 2014 đến nay, NHNN không đưa thêm vàng ra thị trường, nên vàng miếng SJC trong lưu thông thậm chí còn được chuyển hóa sang vàng nguyên liệu để phục vụ sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. Các loại vàng trang sức mỹ nghệ này còn được đem xuất khẩu.
Do nguồn cung bị giảm, giá vàng thế giới tăng cao, các doanh nghiệp phải dự trữ vàng do không biết giá vàng thế giới biến động như thế nào. Việc mua nguyên liệu giá cao thì sẽ phải bán với giá cao hơn.
Một trong những giải pháp được NHNN đưa ra để hạn chế tình trạng trên, đó là thay đổi phương án sản xuất vàng miếng, bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền, thực hiện cấp phép sản xuất vàng miếng cho một số doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện.
Đồng thời, NHNN sẽ thực hiện cấp hạn mức sản xuất vàng miếng trong từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ và sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô nhằm tăng cung vàng miếng trên thị trường, giải quyết được vấn đề chênh lệch giá.
Trước đó, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, thời gian qua, NHNN đã lấy ý kiến các bộ, ngành chức năng có liên quan, Hiệp hội, doanh nghiệp và các chuyên gia về báo cáo tổng kết, đánh giá Nghị định 24.
Về việc sửa cơ chế, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nói thêm, mục tiêu quan trọng lớn nhất trong quá trình xây dựng và suốt quá trình triển khai Nghị định 24 là chống vàng hóa nền kinh tế, không để ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô như lạm phát, tỷ giá, lãi suất.
Tuy nhiên, vì đã ra đời cách đây 12 năm và các điều kiện kinh tế - xã hội cũng đã thay đổi nên việc sửa Nghị định 24 là cần thiết và đáng nhẽ phải sửa đổi sớm hơn, lãnh đạo NHNN cho hay.