Dệt may Việt Nam chưa khai thác tốt EVFTA
Tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi chưa đạt kỳ vọng
Theo thống kê của Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương, tính từ ngày 1/8/2020 (ngày Hiệp định EVFTA có hiệu lực thực thi) đến hết năm 2020, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU sử dụng C/O mẫu EUR.1 đạt 216 triệu USD. Sang quý I/2021, con số này tăng cao hơn, đạt hơn 199 triệu USD.
Về cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sử dụng C/O mẫu EUR.1, đối với nguyên liệu: Sợi filament tổng hợp, thảm từ các vật loại dệt nhân tạo, vải mành dùng làm lốp từ sợi có độ bền cao…là những mặt hàng có tỷ lệ sử dụng mẫu C/O ưu đãi cao; đối với sản phẩm dệt may, những mặt hàng có tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi cao, gồm: Quần dài phụ nữ từ bông hoặc sợi tổng hợp, áo dệt kim từ bông hoặc sợi nhân tạo, áo phông từ bông…
![]() |
Dệt may Việt Nam chưa khai thác tốt EVFTA do năng lực đáp ứng quy tắc xuất xứ còn hạn chế |
Cũng theo Cục Xuất nhập khẩu, dưới tác động của dịch Covid-19, các đơn hàng may mặc có xu hướng giảm trong thời gian qua. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam chuyển dịch sang sản xuất và xuất khẩu khẩu trang sang thị trường các nước EU. Mặt hàng này sử dụng C/O mẫu EUR.1 nhiều nhất trong năm 2020 (chiếm 18,2%) và quý I/2021 (chiếm 17,2%). Trong khi đó, các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như quần dài, áo jacket, đồ lót, quần short lại có tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 tương đối thấp.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sử dụng C/O mẫu EUR.1 trong năm 2021 có sự gia tăng so với năm 2020 nhưng theo Cục Xuất nhập khẩu, con số này vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, chỉ gần 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Như vậy, tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU nhằm mục đích tận dụng ưu đãi thuế quan chưa đạt được mức kỳ vọng.
Thách thức từ quy tắc xuất xứ
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến việc hàng hóa xuất khẩu không sử dụng được C/O để hưởng ưu đãi thuế quan, gồm: Hàng hóa đã có thuế suất cơ sở nhập khẩu rất thấp hoặc bằng 0% hoặc không đáp ứng được quy tắc xuất xứ. Trong khi đó, biểu thuế nhập khẩu của EU, số lượng mặt hàng dệt may có thuế suất cơ sở là 0% rất ít, hầu hết thuế suất hàng dệt may của EU dao động từ 3% đến 12%.
Quy tắc xuất xứ hàng dệt may trong EVFTA được đánh giá là chặt chẽ và được coi là thách thức lớn cho ngành dệt may Việt Nam gia tăng xuất khẩu và hưởng ưu đãi thuế quan từ hiệp định này. Tiêu chí xuất xứ hàng dệt may trong EVFTA được xây dựng trên quy tắc “hai công đoạn”, có nghĩa vải sử dụng để cắt may thành quần áo phải có xuất xứ từ EU hoặc Việt Nam theo. Đối với hàng hóa là nguyên liệu dệt may, EVFTA quy định cụ thể các công đoạn cần thực hiện để hàng hóa được coi là có xuất xứ, không đơn thuần là tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa.
Như vậy, sản phẩm dệt may của Việt Nam chỉ có thể dùng vải có xuất xứ EU hoặc vải được sản xuất trong nước để làm nguyên liệu sản xuất hàng dệt may xuất khẩu đi EU. Tuy nhiên, công suất sản xuất vải trong nước hiện vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất xuất khẩu của ngành.
Mặt khác, ngành dệt may của Việt Nam đang nhập khẩu phần lớn vải nguyên liệu cho sản xuất, chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản…, lượng vải nhập khẩu từ EU lại rất khiêm tốn (chỉ chiếm 1,12% kim ngạch nhập khẩu, năm 2020).Việc chưa áp dụng ngay quy tắc cộng gộp vải nguyên liệu có xuất xứ Hàn Quốc (quy tắc cộng gộp vải Hàn Quốc) trong quá trình sản xuất hàng dệt may của Việt Nam từ khi EVFTA có hiệu lực cũng phần nào khiến cho kim ngạch dệt may xuất khẩu có sử dụng C/O ưu đãi chưa cao.
Ngoài ra, cách diễn đạt các tiêu chí xuất xứ khác biệt khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp mới xuất khẩu sang EU gặp bỡ ngỡ trong việc đọc và hiểu các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa.
Có thể thấy, khó khăn trong đáp ứng quy tắc xuất xứ là nguyên nhân chính khiến hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang EU chưa sử dụng được nhiều C/O ưu đãi. Theo nhiều chuyên gia, trong ngắn hạn, việc đáp ứng quy tắc xuất xứ vẫn sẽ là hạn chế đối với dệt may Việt Nam. Trong dài hạn, khi mức thuế suất hàng dệt may tiếp tục được cắt giảm sâu tạo động lực cho ngành hình thành các chuỗi sản xuất khép kín từ nguyên liệu thô đến thành phẩm, mới giúp dệt may Việt Nam tận dụng hiệu quả hơn nữa các ưu đãi từ EVFTA mang lại.
Trên cơ sở đó, Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương khuyến cáo: Doanh nghiệp Việt Nam cần phải có kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất vải nguyên liệu trong nước, không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Cần phải hiểu rõ và hiểu đúng quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa để có thể áp dụng một cách chuẩn xác. Quy tắc cộng gộp vải Hàn Quốc được thực hiện sẽ mở rộng cơ hội cho hàng dệt may đáp ứng quy tắc xuất xứ và hưởng ưu đãi thuế quan từ EVFTA, do vậy doanh nghiệp cần sớm có kế hoạch điều chỉnh nguồn nhập khẩu vải.
Đọc nhiều

Triển vọng ngành điện: Sản lượng duy trì đà tăng, cơ cấu dịch chuyển

Đại hội thi đua yêu nước ngành Công Thương: Dấu mốc phát triển mới

Từ làng nghề đến thị trường thế giới: Truyền thông mở đường cho OCOP

Dệt may là mặt hàng dẫn đầu xuất khẩu sang Nga

Tiêu thụ điện khởi sắc, lợi nhuận ngành điện cải thiện

Xuất khẩu cá rô phi tăng mạnh, vượt xa 5 năm trở lại đây

Ngân hàng Nhà nước ấn định hạn mức nhập khẩu vàng

Sơn La: Những kết quả ấn tượng sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 35

Infographic | Thương mại Việt Nam - Trung Quốc đạt gần 160 tỷ USD
