Xuất khẩu sản phẩm hàm lượng công nghệ cao theo Hiệp định EVFTA còn nhiều dư địa
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, được kỳ vọng sẽ tạo thêm động lực quan trọng cho quá trình phục hồi kinh tế xã hội của Việt Nam. Và sau 3 năm thực thi, Hiệp định EVFTA đã góp phần tạo điều kiện cho xuất khẩu vào EU phục hồi mạnh mẽ, nhất là trong hai năm đầu.
Theo số liệu từ Bộ Công Thương, qua 3 năm thực thi EVFTA (1/8/2020-1/8/2023), Việt Nam đã xuất sang EU gần 128 tỷ USD hàng hóa. Các chuyên gia đánh giá, EU là một trong những thị trường tiềm năng đối với nông sản Việt Nam. Không chỉ tăng cường xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư từ châu Âu, sau 3 năm thực thi, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) đã có những tác động thúc đẩy cải cách thể chế tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) - cho biết, Hiệp định EVFTA đã góp phần tạo điều kiện cho xuất khẩu vào EU phục hồi mạnh mẽ, đặc biệt trong hai năm đầu. Tác động đối với xuất khẩu vào EU trong năm thứ ba có phần kém tích cực hơn, có thể là do kinh tế thế giới nói chung và kinh tế EU nói riêng gặp những khó khăn do nhiều yếu tố. Tác động của EVFTA đối với tăng trưởng nhập khẩu từ EU có phần kém rõ ràng hơn so với tăng trưởng xuất khẩu vào EU.
Mặc dù vậy, theo ông Dương, Hiệp định EVFTA đã giúp cho Việt Nam tăng cường nhập khẩu thiết bị máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, góp phần cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, giúp tiêu chuẩn các sản phẩm tăng cao hơn và tăng khả năng gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nhìn chung đã cải thiện khả năng đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của thị trường EU ngay sau khi EVFTA đi vào thực thi.
Xuất khẩu sản phẩm hàm lượng công nghệ cao theo Hiệp định EVFTA còn nhiều dư địa - Ảnh: TTXVN |
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Anh Dương, cơ cấu xuất khẩu sang EU trong giai đoạn 2017-2021 vẫn dịch chuyển theo hướng giảm các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
"Hoạt động xuất khẩu sang thị trường này vẫn thấp hơn kỳ vọng, cho thấy tiềm năng để gia tăng xuất khẩu vào thị trường EU vẫn còn rất lớn", ông Dương thông tin và cho biết thêm, đối với đầu tư nước ngoài, tác động với dòng vốn đầu tư từ EU vào Việt Nam cũng cho thấy những cải thiện rõ rệt xét trong tổng thể kết quả thu hút FDI của Việt Nam.
Với nhiều ưu đãi thuế quan và gỡ bỏ các hạn chế tiếp cận thị trường trong nhiều lĩnh vực, EVFTA đã mở rộng cửa cho các nhà đầu tư EU tiếp cận và mở rộng đầu tư ở Việt Nam.
Mặc dù chịu ảnh hưởng không nhỏ của đại dịch Covid-19 bùng phát năm 2020, nhưng đầu tư từ EU vào Việt Nam ít nhiều đã tăng sau đại dịch. Hà Lan, Pháp, Luxembough, Đức, Đan Mạch, Bỉ lần lượt là sáu nhà đầu tư hàng đầu của EU vào Việt Nam.
Nếu so sánh vốn đăng ký lũy kế tại thời điểm cuối tháng 7/2023 với vốn đăng ký lũy kế tại thời điểm 7/2020, có thể thấy tác động của EVFTA đối với thu hút vốn FDI từ EU còn tương đối khiêm tốn. Đối với đầu tư nước ngoài, dòng vốn đầu tư từ EU vào Việt Nam có sự cải thiện rõ rệt. EVFTA đã mở rộng cửa cho các nhà đầu tư tiếp cận và mở rộng dự án ở Việt Nam nhờ vào các chính sách ưu đãi thuế quan và gỡ bỏ các hạn chế tiếp cận thị trường trong nhiều lĩnh vực. Cụ thể, tỷ trọng vốn đăng ký đã tăng từ 5% (bình quân giai đoạn 2016-2020) lên mức 8,9% (năm 2022) và 9,2% (trng nửa đầu năm 2023).
Bên cạnh đó, ở góc độ thể chế, các chuyên gia đánh giá, Hiệp định EVFTA đã phát huy vai trò thúc đẩy cải cách thể chế phù hợp với yêu cầu và bối cảnh phát triển mới.
Theo CIEM, các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững, dịch vụ tài chính, mua sắm công đều có nhiều điều chỉnh về các thể chế, văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống pháp luật Việt Nam phần lớn đã tương thích với các cam kết trong EVFTA. Tiến độ chuẩn bị một số văn bản quy phạm pháp luật để triển khai EVFTA có phần nhanh hơn so với CPTPP, có thể do đã rút kinh nghiệm từ quá trình tổ chức thực thi CPTPP.
Về vấn đề này, ông Dương lưu ý: "Việt Nam cần cân nhắc cách tiếp cận đối với cam kết trong một số lĩnh vực, tránh nội luật hóa một cách quá cứng nhắc và ảnh hưởng đến khả năng thích ứng của thị trường trong nước trước các diễn biến, bối cảnh mới" .
Theo đó, để khai thác tối đa lợi ích từ Hiệp định EVFTA trong bối cảnh cải cách thể chế kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam, Báo cáo của CIEM đã đưa ra các khuyến nghị bao gồm: Rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường sự phối hợp đồng bộ từ Trung ương tới địa phương; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về FTA tới các khối doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cùng với đó là nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế; tăng cường, đổi mới các hoạt động xúc tiến thương mại, định hướng thị trường xuất khẩu nhằm tận dụng cơ hội từ EVFTA.
Đồng thời, rà soát, đơn giản hóa các quy định, thủ tục về cấp giấy chứng nhận C/O cho doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường đối tác; chủ động nghiên cứu các nội dung liên quan đến cải cách cơ cấu nhằm hỗ trợ thực thi EVFTA.
Với việc tận dụng Hiệp định EVFTA, Việt Nam đã vươn lên thành đối tác thương mại lớn nhất của EU trong ASEAN và đứng thứ 11 trong số các nước cung ứng hàng hóa lớn nhất vào EU. Đồng thời, EU cũng là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam. |