Tranh cãi áp thuế đối với nước giải khát có đường: Nhiều quốc gia đã bãi bỏ
Kết quả hạn chế thừa cân béo phì không như mong đợi
Việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường đã trở thành một xu hướng toàn cầu trong những năm gần đây, với mục tiêu giảm tiêu thụ đường, cải thiện sức khỏe cộng đồng và giảm gánh nặng bệnh tật liên quan đến béo phì. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế của chính sách này vẫn còn nhiều tranh cãi.
TS. Nguyễn Ngọc Yến - Khoa Pháp luật kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra những phân tích sâu sắc về hiệu quả của việc áp dụng chính sách thuế đối với nước giải khát có đường trên thế giới. TS. Ngọc Yến cho biết, mặc dù nhiều quốc gia đã áp dụng biện pháp này với hy vọng giảm tỷ lệ thừa cân béo phì, tuy nhiên, kết quả thực tế lại không như mong đợi.
Theo nghiên cứu của bà Yến, chưa có bằng chứng khoa học rõ ràng cho thấy việc đánh thuế nước giải khát có đường trực tiếp dẫn đến giảm tỷ lệ thừa cân béo phì. Ngược lại, tại một số quốc gia như Ấn Độ, Thái Lan, Chi-lê, Mexico, Bỉ, Phần Lan, Philipines, tỷ lệ thừa cân béo phì thậm chí còn tăng lên sau khi áp dụng chính sách này.
Việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường đã trở thành một xu hướng toàn cầu trong những năm gần đây. Ảnh: TT |
TS. Cấn Văn Lực cho biết, theo World Bank (11/2023), hiện có 108/192 quốc gia, vùng lãnh thổ (chiếm 56%) áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường (gọi tắt là thuế đường), trong đó, Brazil là nước đầu tiên ban hành chính sách thuế này vào năm 1965 và tại Nga, thuế đường vừa có hiệu lực từ ngày 1/7/2023.
Trong giai đoạn 2016-2024, có 47 nước đã ban hành thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường như một chính sách tài khóa cho sức khỏe. Riêng trong khu vực ASEAN, hiện có 6 nước đã áp dụng thuế đường: Campuchia (từ năm 2003), Lào (từ năm 2005), Brunei và Thái Lan (từ năm 2017), Philippines (năm 2018) và Malaysia (năm 2019). Tuy nhiên, việc đánh thuế đường có thực sự hiệu quả, giúp hạn chế tình trạng thừa cân béo phì ở các nước hay không vẫn chưa có luận chứng khoa học rõ ràng.
"Căn cứ vào số liệu trên quy mô toàn cầu về tỷ lệ người thừa cân béo phì tại thời điểm năm 2016 và 2024 (của Liên đoàn Béo phì thế giới - World Obesity Federation - WOF), có thể thấy việc đánh thuế đường chưa chắc giúp tỷ lệ người mắc bệnh thừa cân béo phì giảm xuống. Nói cách khác, tác dụng của thuế đường trong việc hạn chế bệnh thừa cân béo phì là chưa rõ ràng", TS. Cấn Văn Lực lưu ý.
TS. Cấn Văn Lực cũng cho biết nguyên nhân khiến thuế đường chưa chứng tỏ phát huy tác dụng và hiệu quả trong việc hạn chế tình trạng thừa cân béo phì ở các nước, là vì: nước giải khát có đường không phải là tác nhân duy nhất của căn bệnh thừa cân béo phì. Theo WOF (2024), có 9 yếu tố nguy cơ gây ra bệnh béo phì, trong đó, thực phẩm sản xuất công nghiệp (bao gồm cả đồ uống) là một trong số đó. Bên cạnh đó, theo Tax Foundation (2023), do thuế đường có cơ sở rất hẹp, dẫn đến nguồn thu ngân sách không ổn định, không đủ lớn để trang trải cho những chương trình dài hạn vì mục tiêu sức khỏe của Chính phủ, khiến giảm hiệu quả chính sách thuế.
Nhiều quốc gia đã bãi bỏ chính sách thuế đối với nước giải khát có đường
Ngoài ra, một thực tế đáng chú ý, nhiều quốc gia đã quyết định bãi bỏ chính sách thuế đối với nước giải khát có đường. Đan Mạch, California, Illinois (Hoa Kỳ), Na Uy là những ví dụ điển hình. Quyết định này được đưa ra sau khi các quốc gia này nhận thấy rằng biện pháp thuế không chỉ thiếu hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ thừa cân béo phì mà còn gây ra những tác động tiêu cực đến kinh tế xã hội.
Ngược lại, một số quốc gia như Singapore, Nhật Bản, Đức đã thành công trong việc kiểm soát tỷ lệ thừa cân béo phì mà không cần áp dụng biện pháp đánh thuế. Thành công của các quốc gia này đến từ việc tập trung vào các biện pháp tuyên truyền, giáo dục về lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng cân bằng và khuyến khích hoạt động thể chất.
"Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường không phải là một biện pháp hiệu quả trong việc kiểm soát và giảm tỷ lệ thừa cân béo phì cũng như các bệnh không lây nhiễm. Do vậy, cần xem xét lại việc bổ sung nước giải khát có đường vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Cách tiếp cận bền vững để giải quyết vấn đề thừa cân, béo phì cũng như các bệnh không lây nhiễm khác bao gồm tăng cường giáo dục, tuyên truyền, áp dụng các chính sách và khuyến khích người dân duy trì chế độ dinh dưỡng cân bằng, hợp lý, cũng như tăng cường các hoạt động thể chất", bà Yến nhấn mạnh.
Do vậy, theo TS. Nguyễn Ngọc Yến, cần xem xét lại việc bổ sung nước giải khát có đường vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Cách tiếp cận bền vững để giải quyết vấn đề thừa cân, béo phì cũng như các bệnh không lây nhiễm khác bao gồm tăng cường giáo dục, tuyên truyền, áp dụng các chính sách và khuyến khích người dân duy trì chế độ dinh dưỡng cân bằng, hợp lý, cũng như tăng cường các hoạt động thể chất.
"Trong bối cảnh trên, cần có sự hợp tác liên ngành, thay vì chỉ sử dụng đơn lẻ chính sách về thuế, bao gồm: nâng cao nhận thức về tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ em trong cộng đồng và đối với các nhà hoạch định chính sách; tiến hành nhiều nghiên cứu hơn về tác động kinh tế và sức khỏe của bệnh thừa cân béo phì, các biện pháp can thiệp giải quyết tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ em để cung cấp đủ bằng chứng cho nhà làm chính sách. Ngoài ra, cần đẩy nhanh các chương trình hiện có và xây dựng các chính sách và chương trình cụ thể khác để giải quyết tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ em tại Việt Nam". TS. Cấn Văn Lực kiến nghị.
Theo WOF (2024), vẫn có 21 quốc gia với tỷ lệ người thừa cân béo phì tăng trong giai đoạn 2016 - 2024 dù đã đánh thuế đường nhiều năm (Mỹ đánh thuế đường từ năm 2016, tỷ lệ thừa cân béo phì tăng từ 42,1% lên 42,7%, cao thứ 5 thế giới; Brunei đánh thuế đường từ năm 2017, tỷ lệ TCBP tăng từ 14,1% lên 23,2%, đứng thứ 24 thế giới, hay Malaysia từ năm 2019, tỷ lệ thừa cân béo phì tăng từ 15,6% lên 17,1%...v.v.); có 65 quốc gia dù chưa bao giờ đánh thuế đường, nhưng tỷ lệ người TCBP lại giảm trong giai đoạn 2016-2024 (như Trung Quốc giảm từ 6,2% còn 6,1%, Indonesia giảm từ 6,9% còn 6,1%, Yemen từ 17,1% còn 4,1%, Đan Mạch từ 19,7% còn 11,1%, Italia từ 19,9% còn 9,9%, Nauy từ 23,1% còn 8,3%, Thụy Sỹ từ 19,5% còn 8,3%, Myanmar giảm từ 5,8% còn 3,3%...v.v.). Đáng chú ý, Nhật Bản là nước không đánh thuế đường, nhưng tỷ lệ người thừa cân béo phì luôn giữ ổn định trong 9 năm qua, ở mức 4,3%, là một trong những nước có tỷ lệ thừa cân béo phì thấp nhất thế giới. Tại Việt Nam, trong giai đoạn 2016-2024, dù tỷ lệ mắc bệnh thừa cân béo phì tăng từ 2,1% lên 3,6% và nằm trong số 14 nước có tỷ lệ thừa cân béo phì thấp nhất thế giới (xếp thứ 179/192), nhưng tốc độ tăng thừa cân béo phì ở nhóm dân số < 19 tuổi ở mức cao (tăng bình quân 5,7%/năm với nhóm < 5 tuổi, và 8,4%/năm với nhóm 5-19 tuổi), tỷ lệ mắc bệnh thừa cân béo phì của trẻ em Việt Nam ở mức 19%, xếp thứ 108/192 quốc gia. |