Đề xuất mở rộng đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh trong Luật Quản lý thuế
Mở rộng đối tượng áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh
Trong bối cảnh hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài chính – ngân sách, Bộ Tài chính đang chủ động đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế. Một trong những điểm đáng chú ý nhất của dự thảo là việc điều chỉnh quy định về tạm hoãn xuất cảnh đối với người nộp thuế nhằm tăng cường hiệu quả quản lý thu ngân sách nhà nước.
Theo dự thảo đề cương, với việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, một trong những điểm đáng chú ý là sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 66 theo định hướng: đưa đối tượng cá nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại khoản 7 Điều 124 Luật Quản lý thuế vào khoản 1 Điều 66 luật Quản lý thuế cho thống nhất.
Bộ Tài chính đề xuất bổ sung đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh do chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Ảnh minh họa |
Khoản 1 Điều 66 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 quy định về hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh như sau: "Người nộp thuế thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh".
Trong khi đó, khoản 7 Điều 124 Luật Quản lý thuế quy định: "Cá nhân là người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế trước khi xuất cảnh và có thể bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh".
Đồng thời, bổ sung thêm đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh gồm: cá nhân là đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, cá nhân là chủ hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Theo Bộ Tài chính, việc bổ sung các trường hợp tạm hoãn xuất cảnh sẽ giúp nâng cao hiệu quả công tác cưỡng chế nợ thuế, tăng tính linh hoạt trong việc áp dụng đồng thời các biện pháp cưỡng chế phù hợp với thực tế tại cơ quan thuế, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào ngân sách nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Luật Quản lý thuế hiện hành có quy định: người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; nếu chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh.
Trong phần báo cáo đánh giá tác động của chính sách, Bộ Tài chính nêu theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Quản lý thuế, "người nộp thuế" bao gồm cả tổ chức và cá nhân. Do đó, việc tạm hoãn xuất cảnh đối với chủ thể này như quy định tại khoản 1 Điều 66 là không phù hợp với thực tiễn.
Việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh cần được thực hiện đối với các chủ thể là cá nhân người nộp thuế và các cá nhân khác là đại diện theo pháp luật của tổ chức nộp thuế (gồm: chủ hộ kinh doanh, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, cá nhân kinh doanh), chứ không chỉ áp dụng riêng đối với cá nhân người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như quy định tại khoản 7 Điều 124.
Bãi bỏ quy định chồng chéo, nâng cao hiệu quả thu nợ
Một trong những điểm mới đáng chú ý trong dự thảo là việc bãi bỏ khoản 7 Điều 124 Luật Quản lý thuế. Quy định này trước đây đã gây ra nhiều bất cập trong thực tiễn áp dụng, dẫn đến tình trạng chồng chéo và khó khăn trong việc xác định đối tượng áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Việc bãi bỏ quy định này nhằm thống nhất đối tượng quy định tại Luật Quản lý thuế trong trường hợp xuất cảnh, qua đó nâng cao hiệu quả thu nợ thuế.
Để tăng cường hiệu quả công tác cưỡng chế nợ thuế, dự thảo cũng đề xuất một số điều chỉnh đối với các biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản và thu hồi nợ từ bên thứ ba. Cụ thể, cơ quan thuế chỉ được áp dụng các biện pháp này khi đã có đầy đủ thông tin, điều kiện để thực hiện cưỡng chế, không bắt buộc phải thực hiện đối với tất cả các đối tượng. Điều này giúp cơ quan thuế tập trung nguồn lực vào các đối tượng trọng tâm, có khả năng thu hồi nợ cao.
Dự thảo cũng đề xuất bỏ các quy định mang tính định tính như "một số biện pháp", "không hiệu quả" vì những quy định này rất khó xác định và thực hiện trong thực tế. Thay vào đó, dự thảo bổ sung nguyên tắc rõ ràng: đối với người nộp thuế có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn, cơ quan thuế có thể lựa chọn ngay biện pháp cưỡng chế phù hợp trong số 7 biện pháp cưỡng chế đã được quy định để kịp thời thu hồi nợ vào ngân sách nhà nước.
Bộ Tài chính đã thẳng thắn thừa nhận những khó khăn, bất cập trong quá trình áp dụng biện pháp kê biên tài sản và thu hồi nợ từ bên thứ ba. Cụ thể, việc xác minh thông tin, xác định quyền sở hữu tài sản, xác định tỷ lệ trách nhiệm của người nộp thuế và tỷ lệ tài sản đối với các tài sản có đồng sở hữu đều là những vấn đề phức tạp và tốn nhiều thời gian. Ngoài ra, hầu hết tài sản của người nộp thuế đang được thế chấp tại các tổ chức tín dụng hoặc có thời gian sử dụng thấp, gây khó khăn cho việc thực hiện cưỡng chế.
Những đề xuất sửa đổi của Bộ Tài chính cho thấy một nỗ lực đáng ghi nhận trong việc hoàn thiện khung pháp lý về quản lý thuế, nhằm tăng cường hiệu quả thu nợ và đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, để việc thực hiện các quy định mới đạt được hiệu quả cao, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, đồng thời tăng cường năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác thuế.
Dự thảo sửa đổi Luật Quản lý thuế của Bộ Tài chính là một bước đi tích cực trong việc hoàn thiện khung pháp lý về quản lý thuế. Việc cải cách quy định về cưỡng chế nợ thuế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác thu thuế và đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, để việc thực hiện các quy định mới đạt được hiệu quả cao, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và sự đồng thuận của xã hội.
Bộ Tài chính đang đề nghị xây dựng dự án luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Chứng khoán, luật Kế toán, luật Kiểm toán độc lập, luật Ngân sách nhà nước, luật Quản lý, sử dụng tài sản công, luật Quản lý thuế, luật Dự trữ quốc gia. |