Chính sách cạnh tranh và trợ cấp trong EVFTA nhằm đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp
Trong đó, các bên liên quan quan ngại sâu sắc về chính sách cạnh tranh của hiệp định này. Tuy nhiên, EVFTA dành ra Chương 10 để điều chỉnh chính sách cạnh tranh nhằm đảm bảo cạnh tranh bình đẳng và trợ cấp cho cả hai bên.
Thứ nhất, về chính sách cạnh tranh: EVFTA trao quyền tự chủ cho mỗi Bên trong việc xây dựng và thực thi luật cạnh tranh. Hiệp định chỉ đưa ra các nguyên tắc để thực hiện chính sách cạnh tranh. Tất cả các doanh nghiệp, tư nhân hay nhà nước đều phải chịu sự điều chỉnh của các quy định về cạnh tranh trong EVFTA.
Theo đó, hiệp định quy định khung pháp lý mà 03 hành vi sau đây sẽ bị coi là hành vi hạn chế cạnh tranh: (i) Các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, các quyết định của hiệp hội các doanh nghiệp và các tập quán phối hợp có mục đích ngăn cản, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh; (ii) Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của một hoặc nhiều doanh nghiệp; và/hoặc (iii) Sự tập trung giữa các doanh nghiệp sẽ cản trở đáng kể cạnh tranh hiệu quả. Tuy nhiên, EVFTA cũng có quy định về miễn trừ áp dụng luật cạnh tranh của một bên. Luật cạnh tranh không áp dụng cho các nhiệm vụ vì lợi ích công cộng, phù hợp với mục tiêu chính sách công mong muốn và minh bạch.
Thứ hai, về trợ cấp: EVFTA sử dụng định nghĩa và phạm vi trợ cấp cụ thể được quy định trong Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng. Theo đó, trợ cấp mang tính đặc thù đối với một doanh nghiệp hoặc ngành hoặc nhóm doanh nghiệp hoặc ngành thuộc thẩm quyền cấp trợ cấp. Trợ cấp trong EVFTA áp dụng cho mọi doanh nghiệp. Trong đó:
(i) Các trường hợp được miễn trừ trong phạm vi trợ cấp của EVFTA gồm có 06 trường hợp được trợ cấp: Các biện pháp cá nhân hoặc người tiêu dùng hoặc chung không được coi là cụ thể; Hoạt động phi kinh tế; Thủy sản và trợ cấp liên quan đến thương mại hàng hóa nằm trong Phụ lục 1 của Hiệp định Nông nghiệp; Trong số tiền cho mỗi người thụ hưởng trong khoảng thời gian ba năm là trên 300.000 quyền rút vốn đặc biệt (SDR); Các ngành hoặc phân ngành không được liệt kê trong Chương 8 của EVFTA (Tự do hóa Đầu tư, Thương mại Dịch vụ và Thương mại Điện tử); và Được chính thức đồng ý hoặc cấp phép trước hoặc trong vòng 05 năm sau khi EVFTA có hiệu lực.
Các bên của EVFTA thừa nhận rằng trợ cấp có khả năng làm sai lệch hoạt động đúng đắn của thị trường. Chúng cũng làm suy yếu những lợi ích của tự do hóa thương mại. Như vậy, trợ cấp chỉ được cấp khi cần thiết để đạt được mục tiêu chính sách công. EVFTA đưa ra một danh sách minh họa các mục tiêu công mà một Bên có thể thực hiện: Thực tiễn liên quan đến việc chuyển tiền trực tiếp, khả năng chuyển tiền trực tiếp hoặc nợ phải trả; Doanh thu đến hạn bị bỏ qua hoặc không được thu; Cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ ngoài cơ sở hạ tầng chung, hoặc mua hàng hóa; Thanh toán cho cơ chế tài trợ, hoặc ủy thác hoặc chỉ đạo một cơ quan tư nhân thực hiện một hoặc nhiều loại chức năng được quy định; và Bất kỳ hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc giá nào theo nghĩa được miễn trừ nguyên tắc không phân biệt đối xử tại Điều XVI GATT 1994. Tuy nhiên, các Bên không nên trợ cấp cho các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ nếu chúng ảnh hưởng tiêu cực hoặc có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh và thương mại.
(ii) Trợ cấp có điều kiện: có 02 mức trợ cấp cụ thể như sau: Một thỏa thuận pháp lý theo đó chính phủ hoặc bất kỳ cơ quan công quyền nào chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ hoặc trách nhiệm pháp lý của một số doanh nghiệp với các điều kiện hạn chế về số lượng các khoản nợ và trách nhiệm đó hoặc thời hạn của trách nhiệm đó; và Hỗ trợ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, dưới nhiều hình thức với thời gian hỗ trợ trên 01 năm với điều kiện đã lập phương án tái cơ cấu đáng tin cậy. Để đảm bảo nguyên tắc minh bạch, mỗi Bên sẽ thông báo cho nhau 04 năm một lần về cơ sở pháp lý, hình thức, số tiền hoặc ngân sách và đối tượng được hưởng trợ cấp cụ thể (nếu có thể). Nếu một Bên cho rằng một khoản trợ cấp cụ thể do đối tượng kia cấp có ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại hoặc đầu tư, thì Bên đó có thể bày tỏ quan ngại bằng văn bản với bên kia và yêu cầu tham vấn về vấn đề này. Bên được yêu cầu phải cung cấp thông tin hoặc thực hiện để loại bỏ hoặc giảm thiểu những tác động tiêu cực do trợ cấp gây ra. Đáng chú ý, không bên nào được yêu cầu giải quyết tranh chấp theo EVFTA đối với bất kỳ vấn đề nào phát sinh từ tham vấn và hành vi hạn chế cạnh tranh.