Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Bến Tre cần nghiên cứu, đề xuất chính sách thí điểm phát triển công nghiệp năng lượng
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu ngành công nghiệp dựa trên nền tảng khoa học công nghệ Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: 5 nhiệm vụ trọng tâm để phát triển kinh tế Bến Tre |
Phát huy tinh thần “Đồng Khởi mới” trong phát triển kinh tế - xã hội
Báo cáo của Tỉnh ủy Bến Tre và các ý kiến tại tại buổi làm việc đánh giá thời gian qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bến Tre đã quyết tâm, nỗ lực đạt được những kết quả tích cực.
Năm 2022, tỉnh đạt và vượt 15/25 chỉ tiêu; GRDP tăng 7,33%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; xuất khẩu ước đạt 1,51 tỷ USD, tăng 19,69%, đặc biệt là bưởi da xanh (loại trái cây thứ 7 của nước ta được phép nhập khẩu vào thị trường Mỹ). Thu ngân sách Nhà nước đạt trên 5.635 tỷ đồng, vượt 6,43% dự toán Trung ương giao.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt gần 23.000 tỷ đồng, tăng 14,32%; thu hút được 63 dự án FDI và 267 dự án đầu tư trong nước. Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, có 80 xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 158 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP từ 3 sao trở lên. Tình hình xâm nhập mặn được kiểm soát tốt.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại buổi làm việc với tỉnh Bến Tre |
Chỉ số PAR INDEX tăng 7 bậc, PCI xếp thứ 18/63, SIPAS xếp thứ 26/63. Hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp được đẩy mạnh, số doanh nghiệp thành lập mới tăng cao (tăng 56,25%), thúc đẩy mô hình kinh tế hợp tác (có 179 HTX, 1.129 tổ hợp tác).
Tỉnh chú trọng xây dựng quy hoạch tỉnh thời 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Triển khai một số công trình trọng điểm, quy mô lớn tạo động lực và mở ra không gian phát triển mới. Công tác phát triển đô thị được chú trọng.
Tỉnh xác định 5 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá, 11 công trình, dự án trọng điểm trong nhiệm kỳ.
5 nhiệm vụ trọng tâm gồm: Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị; xây dựng và phát triển con người Bến Tre và khát vọng vươn lên "Đồng Khởi mới"; tập trung phát triển nông nghiệp sạch, hiệu quả là nền tảng; phát triển công nghiệp chế biến, năng lượng và xây dựng đô thị là động lực tăng trưởng, phát triển thương mại, dịch vụ, ngành du lịch là mũi nhọn, phát triển các ngành kinh tế biển gắn với định hướng phát triển về hướng Đông, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật; hoàn thành quy hoạch tỉnh Bến Tre và xây dựng các cơ chế huy động các nguồn vốn; giữ vững quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Bến Tre cũng xác định 3 nhiệm vụ đột phá gồm: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách hành chính; huy động mọi nguồn lực, đầu tư phát triển hạ tầng thuỷ lợi, cấp nước, giao thông, logistics, đô thị, phấn đấu hình thành giai đoạn 1 tuyến động lực ven biển; phát triển nguồn nhân lực phù hợp Tầm nhìn chiến lược đến năm 2030 và năm 2045.
Hiện tỉnh Bến Tre đang triển khai 11 công trình, dự án trọng điểm gồm cầu Rạch Miễu 2; hệ thống thủy lợi, cấp nước; 500 ha các dự án đô thị thành phố Bến Tre và các huyện; 4.000 ha nuôi tôm biển công nghệ cao; các dự án điện gió, chuẩn bị các điều kiện triển khai dự án điện khí; tuyến động lực ven biển (giai đoạn 1); phát triển mới 5.000 doanh nghiệp; xây dựng 100 doanh nghiệp dẫn đầu; thành lập Đại học Bến Tre; xây dựng làng văn hóa du lịch Chợ Lách; xây dựng Trung tâm cây giống, hoa kiểng Chợ Lách; lấp đầy Khu công nghiệp Phú Thuận và mỗi huyện 1 cụm công nghiệp ít nhất 70 ha, riêng huyện Chợ Lách có diện tích phù hợp.
Theo Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ, Bến Tre phải nỗ lực, vượt qua những khó khăn, thách thức, sớm thoát khỏi tình trạng tụt hậu so với các tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, tiếp tục lan tỏa sâu rộng tinh thần thi đua "Đồng Khởi mới" trên tất cả các lĩnh vực, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bến Tre nhanh và bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao mức sống của người dân, mở rộng không gian phát triển, tăng cường liên kết vùng, sớm đạt mục tiêu đưa Bến Tre trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực và của cả nước.
Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Trần Ngọc Tam cho biết, với lợi thế có bờ biển dài hơn 65 km, thời gian qua tỉnh Bến Tre đã tập trung khai thác, phát huy hiệu quả kinh tế biển, đóng góp lớn vào tăng trưởng chung của tỉnh, nhất là trên lĩnh vực thủy sản.
Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Trần Ngọc Tam phát biểu |
Hiện nay, tỉnh đang có định hướng phát triển về hướng Đông, để từng bước hình thành khu kinh tế biển, phát triển đột phá một số ngành kinh tế biển, tạo hành lang phát triển kinh tế không chỉ cho tỉnh Bến Tre mà cả khu vực. Ông Trần Ngọc Tam cho rằng, 3 động lực phát triển của tỉnh thời gian tới gồm công nghiệp, hạ tầng giao thông và đô thị.
Tỉnh Bến Tre nêu một số kiến nghị liên quan tới đầu tư phát triển hạ tầng giao thông tỉnh, đặc biệt là sớm triển khai dự án tuyến đường ven biển; sử dụng đất; chính sách y tế; triển khai hoạt động lấn biển với quy mô và lộ trình phù hợp để thu hút, mời gọi đầu tư các dự án đầu tư…
Nhiều tồn tại, hạn chế "kìm hãm" sự phát triển của Bến Tre
Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, qua các báo cáo đã đánh giá đúng tiềm năng, lợi thế của Bến Tre. Thời gian qua, Bến Tre đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp, tăng trưởng hơn 16,08% gấp hơn 2 lần bình quân so với cả nước, xếp thứ 4 trong vùng, 16 của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu đạt tăng trưởng tới 20% gần gấp 2 lần so với cả nước, xếp thứ 6 trong vùng, 35 so với cả nước, tổng mức bán lẻ đạt 11 trong vùng và 16 cả nước…
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại hội nghị |
Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn nhận, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng chất lượng tăng trưởng, hiệu quả đóng góp của công nghiệp, thương mại vào tăng trưởng kinh tế của Bến Tre chưa bền vững, tạo đột phá thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Đồng thời, hạ tầng phát triển công nghiệp, phục vụ thương mại còn nhiều hạn chế về hạ tầng, cụm, khu công nghiệp, logictisc, công nghiệp làng nghề, nông thôn chậm phát triển, thiếu cơ sở công nghiệp lớn, chủ lực. Xuất khẩu của Bến Tre đạt khá nhưng giá trị gia tăng không cao, mạng lưới bán lẻ hiện đại còn mỏng, hạ tầng cho thương mại điện tử còn yếu kém, kết nối hạ tầng thương mại nông thôn còn thiếu đồng bộ.
Song song với việc chỉ ra những tồn tại, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại kể trên trước hết xuất phát từ việc chưa có quy hoạch đồng bộ, hạ tầng kinh tế công nghiệp, dịch vụ còn gặp nhiều khó khăn, giao thông kết nối nhất là logictisc hạn chế. Đồng thời, Bến Tre chưa cơ chế khuyến khích đầu tư hấp dẫn, xúc tiến thương mại chưa hiệu quả, mô hình tổ chức sản xuất còn nhỏ lẻ, tự phát, chất lượng sản phẩm chưa ổn định, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu ổn định vào các thị trường.
Ưu tiên nguồn vốn phục vụ phát triển hạ tầng, công nghiệp, thương mại
Để tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre trong thời gian tới, dưới góc độ ngành Công Thương, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị Tỉnh ủy Bến Tre quan tâm, chú trọng một số các vấn đề:
Thứ nhất, Bến Tre cần tập trung tiếp tục rà soát, bổ sung đề án, chiến lược phát triển, kế hoạch phát triển các ngành kinh tế, nhất là lĩnh vực công thương để kịp thời tích hợp vào quy hoạch của tỉnh; trong đó cần chú trọng nghiên cứu kỹ những định hướng của quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng và các quy hoạch ngành quốc gia, tham khảo quy hoạch các địa phương liền kề như Tiền Giang để kịp thời điều chỉnh quy hoạch tỉnh ngay sau khi được công bố (nếu thấy bất hợp lý) để làm cơ sở cho việc triển khai các dự án đầu tư nói chung, đặc biệt đón lõng các dự án đầu tư từ các chương trình đầu tư quốc gia, đầu tư ngành quốc gia.
Thứ hai, cần quyết liệt điều chỉnh các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư công thay vì “rải mành” nên tập trung ưu tiên các dự hạ tầng kết nối, công nghiệp, dịch vụ trọng điểm. Bến Tre cũng cần mạnh dạn xây dựng, điều chỉnh các cơ chế chính sách để thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển nhất là nguồn lực xã hội; Triển khai áp dụng các cơ chế quản lý, vận hành phức hợp để khai thác sử dụng, tài sản, công trình hiện có theo mô hình công tư kết hợp.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nêu ra những giải pháp và giải đáp những kiến nghị của tỉnh Bến Tre tại hội nghị |
Thứ ba, thời gian tới, Bến Tre cũng cần có cơ chế chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất là công nghiệp chế biến nông thủy sản, hải sản, trái cây, công nghiệp hóa chất, công nghiệp hỗ trợ, dược phẩm trên địa bàn. Đồng thời, chú trọng nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách thí điểm hoặc đặc thù để phát triển ngành công nghiệp năng lượng, phát triển điện gió để sử dụng tại chỗ để tạo sản phẩm mới xuất khẩu ví dụ như sản xuất hydrogen, pin năng lượng sạch.
Thứ tư, chú trọng nghiên cứu thị trường cả trong và ngoài nước để tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung, tuân thủ các quy trình, quy tắc, bảo đảm các sản phẩm sản xuất ra phải đạt tiêu chuẩn của thị trường, nhất là các thị trường xuất khẩu. Đẩy mạnh phân phối hàng hóa qua nền tảng số và các kênh thương mại điện tử, tiếp tục khai thác có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà nước ta đã ký kết (nhất là các Hiệp định EVFTA, CPTPP, RCEP...) để phát triển, đa dạng hóa thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ năm, tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực tại chỗ, chất lượng cao, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp đầu tư tại địa phương hoặc các doanh nghiệp liền kề trong vùng. Chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính để giảm các chi phí không chính thức…
Tạo cơ chế cho phát triển công nghiệp năng lượng
Đối với kiến nghị của Bến Tre đề nghị bổ sung vào Quy hoạch Điện VIII năng lượng gió khoảng 1500MW đến năm 2025 và 4500MW đến năm 2030, Bộ Công Thương đang trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ theo hướng ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, từ nay đến năm 2030, Việt Nam dự kiến phát triển 21.000MW điện gió trên bờ, 7000MW ngoài khơi và có khoảng 4000MW ở phía Bắc. Hiện Bến Tre đang đề xuất tăng 1500MW ở giai đoạn này, trong khi phụ tải ở ngưỡng xê dịch 500MW và đã có quy hoạch tất cả các nguồn điện trong đó có điện gió, mặt trời, 1108MW. Như vậy, Bến Tre mới tiêu thụ ½ công suất hiện có. Nếu tiếp tục bổ sung 1500MW thì sẽ không phù hợp với quy tắc phát triển cân đối các nguồn điện, giữa nguồn và truyền tải, nhu cầu tại chỗ với truyền tải.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng đề xuất này là chính đáng và có cơ sở. Vì vậy, Bộ Công Thương thống nhất với địa phương kiến nghị với Chính phủ, cấp có thẩm quyền cho phép nghiên cứu thí điểm khai thác nắng, gió làm nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp mới là công nghiệp năng lượng. Cho phép thí điểm áp dụng cơ chế mua bán điện trực tiếp để các nhà sản xuất điện sẽ sử dụng tại chỗ điều chế hydrogen, sản xuất pin năng lượng sạch, coi đó là tài nguyên, tiềm năng phát triển. Nếu làm được điều này thì không chỉ dành riêng cho Bến Tre mà các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đều có thể áp dụng và tạo động lực phát triển.
Đối với kiến nghị đầu tư nhà máy sản xuất hydrogen xanh tại tỉnh Bến Tre, Bộ Công Thương ủng hộ đề xuất này bằng việc đã có văn bản báo cáo Thủ tướng và trả lời địa phương. Tuy nhiên, để thí điểm mô hình này, Bến Tre cần nghiên cứu, xem xét quy hoạch mạng điểm cho phù hợp đảm bảo phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh, cảnh quan. Đồng thời, nghiên cứu, lựa chọn các nhà đầu tư có năng lực tài chính, kỹ thuật, đủ sức làm chủ dẫn dắt nếu như có nhà đầu tư nước ngoài tham gia.