Để giải "cơn khát" vàng, nâng cao hiệu quả quản lý thị trường vàng... đã đến lúc Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng như các cơ quan liên quan cần thực hiện những giải pháp căn cơ hơn, quyết liệt hơn. Sự điều chỉnh kịp thời sẽ tạo ra thị trường vàng ổn định, lành mạnh, đảm bảo quyền lợi cho người dân và an ninh kinh tế quốc gia. Theo các chuyên gia, khi xây dựng chính sách thị trường vàng, Việt Nam cần thay đổi phương thức quản lý, lấy bài học kinh nghiệm thực tiễn từ một số nước để điều chỉnh hiệu quả hơn.
Chia sẻ về kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng chính sách quản lý thị trường vàng, PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh chỉ ra, trên thế giới, vàng là một loại hàng hóa. Và quy định có hai loại vàng là vàng vật chất và vàng phi vật chất. Vàng vật chất bao gồm vàng thỏi, vàng miếng, đồng tiền vàng, trang sức. Còn vàng phi vật chất bao gồm vàng tài khoản và các chứng chỉ về vàng được giao dịch rất thông dụng trên thị trường.
Về kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới "can thiệp" bình ổn thị trường vàng có thể kể tới như tại Trung Quốc, những năm gần đây, Trung Quốc đã từng bước tự do hoá thị trường vàng, đặc biệt là thành lập sàn giao dịch vàng Thượng Hải. Sàn giao dịch vàng Thượng Hải được thành lập năm 2002, là pháp nhân độc lập do Nhà nước đầu tư vốn 100%, hiện là một trung tâm giao dịch vàng của Trung Quốc.
Tại Ấn Độ, năm 2003, Chính phủ Ấn Độ chính thức đưa vàng vào hoạt động tại Sở Giao dịch hàng hóa Ấn Độ nhằm tạo thị trường cho việc giao dịch vàng và dễ dàng trong quản lý. Nhờ những chính sách tự do hóa thị trường vàng kết hợp chính sách kiểm soát, quản lý thị trường vàng, Ấn Độ không chỉ ngăn chặn được hoạt động buôn lậu vàng, mà còn giải phóng được một nguồn vốn khổng lồ dưới dạng vàng vào phát triển kinh tế.
Ngoài ra, trong khu vực Đông Nam Á, các nước Thái Lan, Malaysia, Singapore và Indonesia đều đã thành lập sàn giao dịch vàng. Hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng vật chất (bao gồm vàng miếng, vàng nguyên liệu dạng thỏi, vàng nữ trang) đều do các Bộ Thương mại và Kinh tế quản lý.
Các giao dịch vàng phi vật chất (vàng tài khoản, hợp đồng vàng tương lai/kỳ hạn và các hợp đồng vàng phái sinh…) do các ngân hàng thương mại thực hiện dưới sự kiểm soát của các Ngân hàng trung ương hoặc được giao dịch trên các sàn chứng khoán quốc gia dưới sự quản lý của Bộ Tài chính.
Hiện nhiều nước trên thế giới đã áp dụng thành công, hiệu quả phương thức quản lý vàng qua các sàn giao dịch. Song câu hỏi đặt ra, tại Việt Nam có nên thành lập các sàn giao dịch vàng không, hay nên áp dụng giải pháp gì để phù hợp thực tiễn hiện nay?
Bàn về vấn đề này, PGS.TS Nguyễn Hữu Huân nói, thực tế, ở các nước họ quản lý vàng qua các sàn thành công thì điều quan trọng là phải có thiết chế vững chắc, an toàn, minh bạch. Còn tại Việt Nam, khi chúng ta chưa đủ "rào cản" pháp lý thì chưa nên áp dụng. Bởi việc tạo lập sàn giống như chúng ta đang tạo game (trò chơi) cho vàng và rất dễ tiềm ẩn nhiều rủi ro khi pháp lý chưa đủ mạnh để quản lý.
Theo tôi, Việt Nam nên áp dụng giải pháp hạn chế người dân sở hữu vàng nguyên chất, tiêu tốn nguồn lực của nền kinh tế. Từ kinh nghiệm của một số quốc gia trong những giai đoạn đặc biệt của nền kinh tế, nhiều nhà quản lý đã đưa ra các biện pháp này và đã thành công. Lưu ý họ chỉ áp dụng theo từng giai đoạn nhất định.
Cụ thể, tại Anh, vào năm 1966, đồng bảng Anh lao dốc và các nhà đầu tư chuyển sang trú ẩn vào vàng, tạo nên những nguy cơ cho nền kinh tế. Điều đó khiến các nhà quản lý đưa ra một số sửa đổi về luật, giới hạn lượng vàng người dân có thể được nắm giữ. Hạn chế này bị xoá bỏ vào năm 1971.
Tương tự, đạo luật kiểm soát vàng năm 1965 của Ấn Độ cấm công dân sở hữu vàng miếng và tiền xu nhưng được bãi bỏ vào năm 1990. Cá biệt nhất, Mỹ từng cấm người dân không được sở hữu vàng nguyên chất trong giai đoạn từ năm 1933 tới 1971. Qua đó cho thấy, không quốc gia nào không muốn hạn chế việc đầu tư tích trữ vàng và ở những thời điểm nhất định, họ có thể đưa ra các biện pháp có tính cực đoan.
Tại thời điểm này, Việt Nam có thể nghiên cứu, rút kinh nghiệm để lựa chọn biện pháp tối ưu phù hợp với điều kiện thực tế để ổn định thị trường. Chẳng hạn, thay vì tích trữ vàng miếng, có thể thiết lập và hướng người dân đầu tư sang quỹ đầu tư vàng ETFs (là một loại hình quỹ mở, có danh mục đầu tư chủ yếu là vàng nguyên liệu, người sở hữu các chứng chỉ quỹ ETF vàng vẫn có quyền hoán đổi sang vàng vật chất khi cần thiết).
Các chứng chỉ vàng được phát hành thay cho vàng vật chất và Ngân hàng Nhà nước là đơn vị phát hành, ấn định giá, điều hành, đảm bảo việc giao dịch, mua bán các chứng chỉ vàng này thông suốt tại các địa điểm được Ngân hàng Nhà nước chỉ định.