
Điều chỉnh quy hoạch dầu khí: Bước đi chiến lược
Tiếp cận toàn diện, bao phủ chuỗi giá trị
Mới đây, tại hội thảo “Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” do Bộ Công Thương, một trong các ý kiến được nhiều đại biểu quan tâm, thống nhất là việc hoàn thiện quy hoạch dầu khí. Đây không chỉ đơn thuần là điều chỉnh kỹ thuật, mà là nhiệm vụ chiến lược nhằm giữ ổn định nguồn cung sơ cấp, bảo đảm an ninh năng lượng dài hạn trong bối cảnh tài nguyên suy giảm, thị trường quốc tế biến động mạnh và Việt Nam bước vào giai đoạn tái cấu trúc hệ thống năng lượng theo tinh thần Nghị quyết 70-NQ/TW.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long nhấn mạnh, quá trình điều chỉnh quy hoạch diễn ra trong bối cảnh đặc biệt: Luật Quy hoạch sửa đổi vừa có hiệu lực; Bộ Chính trị ban hành nhiều nghị quyết lớn về năng lượng, dầu khí và khoa học - công nghệ; Quy hoạch điện VIII được điều chỉnh toàn diện; các địa phương tái bố trí không gian phát triển.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long phát biểu tại hội thảo.
Riêng với dầu khí, Kết luận 16-KL/TW về định hướng chiến lược phát triển ngành dầu khí đã xác định rõ: Giữ ổn định nguồn cung dầu khí trong nước là nhiệm vụ sống còn để bảo đảm an ninh năng lượng dài hạn. Do đó, phân ngành dầu khí trong quy hoạch tổng thể lần này là cấu phần quan trọng để duy trì tính tự chủ của Việt Nam trong chuỗi giá trị năng lượng.
Phát biểu tại hội thảo, TS. Nguyễn Văn Tư, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) đã trình bày phương án điều chỉnh quy hoạch phân ngành dầu khí với cách tiếp cận toàn diện, bao phủ toàn bộ chuỗi giá trị từ tìm kiếm, thăm dò, khai thác đến công nghiệp khí, chế biến dầu khí và vận chuyển, tồn trữ, phân phối sản phẩm.
Theo TS. Nguyễn Văn Tư, giai đoạn 2021-2024, hoạt động tìm kiếm, thăm dò dầu khí đã đạt một số kết quả tích cực. “Cả nước đã có 6 phát hiện dầu khí mới, tổng gia tăng trữ lượng đạt 58,68 triệu tấn quy dầu, trung bình 14,7 triệu tấn mỗi năm; riêng năm 2024, hệ số bù trữ lượng đạt 1,07 lần, mức cao nhất trong 10 năm gần đây”, ông Tư cho biết. Tuy nhiên, ông cho rằng cũng cần thẳng thắn nhìn nhận các kết quả này vẫn chưa đáp ứng mục tiêu gia tăng trữ lượng 16-22 triệu tấn quy dầu mỗi năm theo Quyết định 893/QĐ-TTg.
Phân tích sâu hơn, đại diện VPI chỉ ra thách thức lớn nhất hiện nay là quy mô các mỏ ngày càng nhỏ và cận biên, chi phí phát triển cao trong khi rủi ro địa chất lớn. “Các cấu tạo triển vọng còn lại chủ yếu nằm ở vùng nước sâu, xa bờ hoặc có quy mô nhỏ, khiến việc thu hút đầu tư gặp nhiều khó khăn. Từ năm 2018 đến nay, chỉ có một hợp đồng dầu khí mới được ký, trong khi số hợp đồng kết thúc hoặc hoàn trả ngày càng tăng”, TS. Nguyễn Văn Tư nhấn mạnh.

TS. Nguyễn Văn Tư - Phó Viện trưởng phụ trách VPI trình bày phương án điều chỉnh quy hoạch phân ngành dầu khí.
Trong lĩnh vực khai thác, sản lượng dầu thô từ các mỏ hiện hữu tiếp tục suy giảm do tài nguyên cạn kiệt. Hệ số bù trữ lượng giai đoạn 2016-2025 chỉ đạt 0,62 lần/năm, phản ánh rõ thực tế công tác gia tăng trữ lượng chưa theo kịp tốc độ khai thác. Theo TS. Nguyễn Văn Tư, nếu không có giải pháp đột phá trong thăm dò và phát triển mỏ mới, nguy cơ suy giảm nguồn cung trong nước là rất rõ ràng, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu năng lượng tiếp tục tăng cao.
Ở chiều ngược lại, nguồn khí được dự báo sẽ tăng trong thời gian tới khi các dự án trọng điểm như Lô B - Ô Môn và Cá Voi Xanh được đưa vào khai thác. “VPI đề xuất tập trung tối ưu hóa khai thác các mỏ đang vận hành, đồng thời đẩy mạnh đưa các phát hiện mới vào khai thác, nhất là tại khu vực nước sâu, xa bờ và các đối tượng dầu khí phi truyền thống”, TS. Nguyễn Văn Tư cho biết.
Từ thực tiễn đó, VPI kiến nghị đẩy mạnh điều tra cơ bản, tăng cường khảo sát địa chấn, hoàn thiện cơ chế ưu đãi đặc thù để thu hút đầu tư quốc tế vào vùng nước sâu, xa bờ, gắn phát triển kinh tế biển với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền. Đồng thời, cần mở rộng khảo sát địa vật lý tại các vùng nước nông chuyển tiếp và nước sâu, đánh giá tiềm năng khí hydrate và dầu khí phi truyền thống như nguồn dự trữ chiến lược cho an ninh năng lượng dài hạn.
Cơ hội tái cấu trúc hạ tầng khí và LNG
Không chỉ dừng lại ở bài toán nguồn cung truyền thống, các ý kiến tại hội thảo cho rằng điều chỉnh quy hoạch dầu khí còn là cơ hội để tái cấu trúc toàn bộ hạ tầng khí và LNG theo hướng đồng bộ, hiệu quả và phù hợp với lộ trình chuyển dịch năng lượng.
Theo báo cáo của VPI, nhu cầu khí hiện nay dao động từ 6,2 đến 9,3 tỷ m³ mỗi năm, trong đó điện chiếm 65-70%, đạm chiếm 16-20% và công nghiệp chiếm khoảng 15%. Trong tương lai, nhu cầu có thể tăng lên 10-15 tỷ m³ mỗi năm, trong khi sản lượng khí khai thác trong nước giai đoạn 2021-2024 có xu hướng suy giảm. Trước thực tế này, định hướng đặt ra là phát triển hạ tầng khí đồng bộ, tận thu tối đa nguồn khí hiện hữu, thúc đẩy triển khai các dự án trọng điểm, xây dựng thị trường khí theo cơ chế thị trường có điều tiết và từng bước liên kết với thị trường khu vực. Phát triển hệ thống đường ống liên vùng và kết nối các trung tâm năng lượng cũng được xác định là nhiệm vụ cấp thiết.
Đối với LNG, dù nhu cầu hiện tại còn thấp hơn năng lực nhập khẩu, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh trong giai đoạn 2030-2035, đặc biệt để phục vụ cho các nhà máy điện LNG với tổng công suất gần 22.524 MW vào năm 2030. VPI đề xuất tập trung xây dựng các kho LNG trung tâm có khả năng cung cấp cho nhiều nhà máy điện trong cùng khu vực, gắn với các trung tâm công nghiệp và khu kinh tế ven biển, đồng thời đẩy nhanh tiến độ các dự án phù hợp Quy hoạch điện VIII điều chỉnh.

Kho cảng LNG Thị Vải là cảng LNG đầu tiên tại Việt Nam thuộc PV Gas.
Ở lĩnh vực chế biến dầu khí, TS. Nguyễn Văn Tư cho biết, sản xuất trong nước hiện mới đáp ứng khoảng 60% nhu cầu xăng dầu, thấp hơn mục tiêu 70%. Các nhà máy lọc dầu vận hành ổn định nhưng cần tiếp tục tối ưu hóa, đa dạng hóa sản phẩm, tiết giảm chi phí và tăng tích hợp sâu giữa lọc dầu - hóa dầu - hóa chất, đồng thời nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới như hydrogen, SAF và nhiên liệu sinh học.
Đáng chú ý, vấn đề dự trữ xăng dầu được xem là điểm nghẽn lớn đối với an ninh năng lượng. Theo VPI, mức dự trữ hiện nay mới đạt khoảng 63 ngày nhập ròng, thấp hơn mục tiêu 75-80 ngày theo Quy hoạch 893 và chưa đạt yêu cầu 90 ngày theo Nghị quyết 70-NQ/TW. Vì vậy, việc tăng cường dự trữ quốc gia, mở rộng hệ thống kho cảng và phát triển mạng lưới phân phối hợp lý là yêu cầu bắt buộc trong giai đoạn tới.
Dầu khí vẫn là trụ cột không thể thay thế của an ninh năng lượng quốc gia, việc điều chỉnh quy hoạch là bước đi chiến lược nhằm cân bằng giữa ổn định nguồn cung và chuyển dịch năng lượng bền vững. Với cách tiếp cận toàn diện, bám sát thực tiễn và định hướng dài hạn, điều chỉnh Quy hoạch phân ngành dầu khí được kỳ vọng sẽ tạo nền tảng vững chắc để hệ thống năng lượng Việt Nam thích ứng hiệu quả với biến động, đồng thời phục vụ mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững trong nhiều thập kỷ tới.
Trong bối cảnh tài nguyên suy giảm và áp lực chuyển dịch năng lượng ngày càng rõ nét, điều chỉnh Quy hoạch phân ngành dầu khí không chỉ là yêu cầu trước mắt mà còn là lựa chọn chiến lược để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Giữ vững vai trò trụ cột của dầu khí, đồng thời tái cấu trúc hạ tầng theo hướng hiện đại, linh hoạt sẽ tạo nền tảng để Việt Nam chủ động thích ứng và phát triển bền vững trong dài hạn.
Tin mới cập nhật

Hoàn thiện quy hoạch dầu khí đáp ứng yêu cầu an ninh năng lượng

Điện khí LNG Nhơn Trạch 3 và 4: Mảnh ghép chiến lược của an ninh năng lượng quốc gia

Đẩy mạnh tuyên truyền tiết kiệm điện để bảo đảm an ninh năng lượng
Đọc nhiều

5 bài học lan tỏa cho năng lượng tái tạo

Đa dạng hóa nguồn lực đầu tư cho phát triển ngành điện

Thị phần sắn Việt Nam mở rộng tại thị trường Trung Quốc

11 tháng, xuất khẩu cà phê đạt 7,94 tỷ USD, tăng gần 61% giá trị

Tìm hướng đi mới cho cà phê đặc sản Đắk Lắk
Khuyến mại kích cầu, thị trường bán lẻ Đà Nẵng sôi động

Infographic | 11 tháng, xuất khẩu thủy sản đạt hơn 10,5 tỷ USD

Thành phố Huế: Tăng tốc đầu tư, quyết tâm bứt phá năm 2026




