Dệt may Việt Nam suy giảm thị phần, do đâu?
Công nghệ sẽ tạo lợi thế cạnh tranh mới cho dệt may Việt Nam Dệt may xoay xở, tìm cách trụ vững trong khó khăn |
Cộng hưởng nhiều yếu tố
Theo thông tin từ Tập đoàn Dệt may Việt Nam, 5 tháng năm 2023, xuất khẩu của dệt may Việt Nam sang 4/5 thị trường lớn giảm so với cùng kỳ năm trước, duy chỉ thị trường Nhật Bản giữ được tăng trưởng 5%, trong đó EU giảm 6%; Hàn Quốc giảm 6%; Trung Quốc giảm 23% so cùng kỳ.
Riêng tại thị trường Mỹ, trong 5 tháng, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ 5,67 tỷ USD, giảm 27% so với cùng kỳ, đây là mức giảm 5 tháng lớn nhất kể từ 2019 trước đại dịch. Trong giai đoạn này, Việt Nam giảm 1,3% thị phần so với cùng kỳ tại thị trường Mỹ, trong khi đối thủ cạnh tranh Bangladesh tăng nhẹ 0,5%. Nhìn rộng hơn, trong giai đoạn từ 2020 đến nửa đầu năm 2023, Việt Nam cùng Trung Quốc là 2 nước đánh mất thị phần nhiều nhất tại Mỹ, Việt Nam mất 2,7% trong khi Trung Quốc mất 1,9%.
![]() |
Nguyên nhân khiến thị phần dệt may của Việt Nam suy giảm đến từ các yếu tố cả vĩ mô và vi mô (Ảnh minh họa) |
Nguyên nhân khiến thị phần dệt may của Việt Nam suy giảm tại những thị trường lớn, theo Tập đoàn Dệt may Việt Nam, ngoài lý do khách quan về sự ảm đạm trong thị trường chung, xu hướng chuyển dịch đơn hàng sang các nước có lợi thế về mặt địa lý, còn do năng lực cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam bị suy giảm, nguyên nhân đến từ các yếu tố cả về vĩ mô và vi mô.
Về mặt vĩ mô, đồng tiền Việt Nam ổn định, gần như không giảm giá so với đồng USD, trong khi đó các quốc gia xuất khẩu dệt may duy trì đồng nội tệ rẻ để kích thích xuất khẩu, đơn cử trong nửa đầu năm đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc mất giá 4,9%, hiện ở mức 7,2 CNY/USD so với năm 2018, 2019 ở mức 6,3-6,5 CNY/USD, đồng Lira Thổ Nhĩ Kỳ mất giá 28%, đồng Rupee Pakistan mất giá 21,2%, đồng Bảng Ai Cập mất giá 19,9%, đồng Taka Bnaladesh mất giá 5,9%. Điều này đã tác động rất lớn đến các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và dệt may nói riêng.
Tiếp đó, doanh nghiệp dệt may đang phải vay vốn với lãi suất cao bình quân 9-11%, cao hơn 5-7% so với Trung Quốc, Bangladesh, Indonesia.
Logistics cũng là một rào cản lớn đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam so với các quốc gia cạnh tranh. Theo trang Vietnam Credit, chi phí logistics bình quân trên tổng doanh thu của doanh nghiệp Việt Nam hiện là gần 17%, cao hơn so với các quốc gia khác. Ngoài ra, việc thiếu chính sách hỗ trợ doanh nghiệp logistics và thiếu các trung tâm logistics lớn, kết cấu hạ tầng logistics còn thấp là nguyên nhân khiến các chi phí này vẫn ở mức cao.
Cùng đó, chi phí tiền lương trung bình hàng tháng cho công nhân may mặc của Việt Nam đang ở ngưỡng 300 USD/người/tháng, trong khi đó Bangladesh chỉ ở mức 95 USD, Campuchia 190, Ấn Độ 145 USD. Chi phí tiền lương cao hơn cũng là một trong những yếu tố thách thức cho doanh nghiệp.
Về mặt vi mô, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam cũng là nguyên nhân khiến cho thị phần giảm. Thực tế cho thấy, Việt Nam không còn là quốc gia dệt may với lợi thế nhân công giá rẻ, thay vào đó, việc đầu tư, công nghệ kỹ thuật mới sẽ giúp cải thiện năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, đáp ứng với yêu cầu mới của thị trường. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động đầu tư máy móc, công nghệ mới của các doanh nghiệp trong ngành còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt bằng chung công nghệ, máy móc trong ngành đều ở mức trung bình và thấp, không sản xuất được các mặt hàng như sợi chỉ số cao, dẫn đến mất vị thế cạnh tranh trong xuất khẩu.
Thêm vào đó, việc quản trị sản xuất cũng là một yếu tố khiến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may bị ảnh hưởng.
Thời điểm nhập xuất nguyên liệu đóng vai trò then chốt trong việc định hình giá thành chi phí sản xuất. Chọn thời điểm mua bông không phù hợp dẫn tới việc chi phí giá thành cao, làm ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
Cải thiện năng lực cạnh tranh
Trong bối cảnh khó khăn nhiều hơn thuận lợi, thách thức bủa vây cả trong và ngoài nước nửa đầu năm 2023, cùng với yêu cầu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thì việc hỗ trợ doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng phục hồi, làm động lực tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới phải trở thành nhiệm vụ ưu tiên trọng tâm. Để có thể khôi phục lại năng lực sản xuất, xuất khẩu và cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may giai đoạn tới, Tập đoàn dệt may đã đề xuất một số giải pháp.
Trong đó, Tập đoàn đề xuất các cơ quan liên quan xây dựng các nhóm giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp một cách toàn diện như: Gia hạn thời gian nộp thuế, tiền sử dụng đất; hạ lãi suất vay và điều kiện thực tế tiếp cận vốn; cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giãn nợ cho doanh nghiệp; đẩy nhanh tiến độ hoàn thuế giá trị gia tăng.
Điều hành linh hoạt các giải pháp kinh tế tài chính theo hướng có lợi cho hoạt động xuất khẩu để làm động lực thúc đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu trong thời gian tới như chính sách tiền tệ, chính sách thuế xuất khẩu, các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như logistics.
Đồng hành cùng doanh nghiệp trong khai thác, mở rộng quan hệ, thị trường và khách hàng mới thông qua chương trình xúc tiến thương mại, tận dụng các hiệp định thương mại tự do đã ký, ký kết các biên bản hợp tác…
Hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới thông qua nguồn ngân sách nhà nước hoặc các chương trình ngân hàng đồng hành cùng doanh nghiệp.
Xây dựng các chính sách khuyến khích chuyển dịch sản xuất theo hướng xanh, bền vững như các gói hỗ trợ thuế đối với doanh nghiệp xanh, gói tín dụng ưu đãi cho công trình sản xuất xanh. Thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành dệt may, tăng tính liên kết để tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu từ đó nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng trong ngành dệt may, minh bạch hóa các khâu để phù hợp với yêu cầu của thị trường xuất khẩu và nhà mua hàng.
Tin mới cập nhật

Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 276 tỷ USD trong 4 tháng

Giá hồ tiêu xuất khẩu tăng, kim ngạch vượt 500 triệu USD

Giá cao su tăng, triển vọng xuất khẩu tiếp tục tươi sáng

Xuất khẩu bưởi tăng mạnh, lọt top trái cây chủ lực mới

Mở rộng không gian xuất khẩu cho mặt hàng công nghiệp: Bài 2: Tận dụng tốt cơ hội từ các FTA

Mở rộng không gian xuất khẩu cho mặt hàng công nghiệp: Bài 1: Nhận diện thách thức

Việt Nam xuất khẩu thịt sang thị trường nào nhiều nhất?

Xuất khẩu cá tra tăng trưởng, thị trường đón tín hiệu tốt

Giá cao su quý I/2025 tăng, thị trường chờ đợi điều gì?

Xuất khẩu chè sang Pakistan đạt hơn 4 triệu USD trong tháng 3
Tin khác

Quý I/2025, xuất nhập khẩu cả nước đạt hơn 202 tỷ USD

Xuất khẩu hạt điều giảm nhưng giá bán tăng kỷ lục

Xuất khẩu gỗ quý I tăng mạnh, đạt gần 4 tỷ USD

Giá xuất khẩu hồ tiêu lập đỉnh, kim ngạch quý I/2025 tăng 2 con số

Quý 1/2025 xuất khẩu rau quả sụt giảm

Thanh long vượt sầu riêng, trở lại 'ngôi vương' xuất khẩu trái cây

Xuất khẩu hồ tiêu quý 1/2025 tăng trưởng mạnh

Xuất khẩu phân bón tháng 3 tăng mạnh, đạt gần 91 triệu USD

Mở rộng không gian xuất khẩu cho ngành gỗ

Thanh long vươn lên top đầu xuất khẩu rau quả Việt
Đọc nhiều

Vì sao nhiều doanh nghiệp F&B thay đổi mô hình kinh doanh?

Nhận định chứng khoán 9/5: Hạn chế việc mua đuổi

Nhận định chứng khoán 5/5: Thị trường khởi sắc

Nhận định chứng khoán 8/5: Cân nhắc giải ngân

Nhận định chứng khoán 7/5: Ưu tiên nắm giữ danh mục

Nhận định chứng khoán 6/5: Thị trường có xu hướng hồi phục

'Cơn khát' cát: Thực trạng báo động tại tỉnh Hà Tĩnh

Mở rộng không gian xuất khẩu cho mặt hàng công nghiệp: Bài 2: Tận dụng tốt cơ hội từ các FTA

Quảng Ninh: Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng
