Xuất khẩu chè: Nhu cầu mới và cơ hội cho "vàng xanh" Việt
Xuất khẩu chè, cách nào gia tăng miếng bánh thị phần? Việt Nam là thị trường cung cấp chè lớn thứ 4 cho Hoa Kỳ Cách nào mở rộng thị phần xuất khẩu chè sang Pakistan? |
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu chè của Việt Nam trong tháng 5/2024 đạt 9,5 nghìn tấn, trị giá 15,4 triệu USD, giảm 6,4% về lượng và giảm 10,1% về trị giá so với tháng 4/2024; tăng 2,6% về lượng nhưng giảm 0,7% về trị giá so với tháng 5/2023. Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 5/2024 đạt 1.625 USD/tấn, giảm 3,2% so với tháng 5/2023.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu chè đạt 46,2 nghìn tấn, trị giá 75,7 triệu USD, tăng 19,7% về lượng và tăng 17,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Giá chè xuất khẩu bình quân đạt 1.639,4 USD/tấn, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2023.
5 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu chè ghi nhận tốc độ tăng trưởng khả quan, tuy nhiên lượng và trị giá xuất khẩu chè sang thị trường chủ lực là Pakistan vẫn trong xu hướng giảm đáng kể, đạt 11,7 nghìn tấn, trị giá 23,4 triệu USD, giảm 18,6% về lượng và giảm 11,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Các chuyên gia nhận định, kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam tăng mạnh là nhờ sản lượng xuất khẩu mặt hàng này sang các thị trường như: Pakistan, Đài Loan, Trung Quốc, Nga, Ba Lan đều ghi nhận mức tăng trưởng cao.
Pakistan mặc dù là một trong những thị trường tiêu thụ chè lớn, nhưng do nhiều rào cản, đặc biệt là thiếu thông tin thị trường, nên doanh nghiệp chè Việt Nam khó tiếp cận và khó có những đơn hàng lớn với các doanh nghiệp Pakistan. Do đó, hoạt động xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường này vẫn chưa có nhiều thuận lợi.
Đứng thứ 2 là Đài Loan, xuất khẩu đạt 5.174 tấn, tương đương 8,46 triệu USD, giá 1.636 USD/tấn, tăng 6,3% về lượng, tăng 8,8% về trị giá và tăng 2,3% về giá so với cùng kỳ.
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chè lớn thứ 3 của Việt Nam, đạt 4.661 tấn, tương đương 6,72 triệu USD, tăng 180,8% về lượng và tăng 63,5% về trị giá. Tuy nhiên, vì lượng tăng nhanh hơn kim ngạch nên giá xuất khẩu chè bình quân sang thị trường này chỉ đạt 1.443,5 USD/tấn, giảm sâu 41,8% so với cùng kỳ. Riêng tháng 5, đất nước tỷ dân đã nhập khẩu 1.586 tấn chè từ Việt Nam, tương đương 2,39 triệu USD, tăng tới 176% về lượng, tăng 115% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Theo Bộ Công Thương, nghiên cứu từ Research and Markets cho thấy, thị trường chè toàn cầu đạt 24,3 tỷ USD trong năm 2016, dự kiến sẽ đạt 37,5 tỷ USD vào năm 2025. Mức tăng trưởng của ngành chè ngày càng cao do lối sống thay đổi và tăng nhận thức của người tiêu dùng về việc uống chè có lợi cho sức khỏe.
Thị trường chè Việt Nam đang chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ về sản phẩm. |
Dưới tác động của nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và xu hướng sống hiện đại, thị trường chè Việt Nam đang chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ về sản phẩm. Nhằm đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, các sản phẩm chè mới liên tục được ra mắt, đa dạng về chủng loại và phong phú về tính năng.
Theo dự báo của các chuyên gia, chè cao cấp dành cho phân khúc khách hàng thượng lưu, chè tốt cho sức khỏe với các công dụng được chứng minh khoa học và chè pha lạnh tiện lợi sẽ là những sản phẩm dẫn dắt thị trường trong giai đoạn tới.
Việt Nam được thiên nhiên ưu ái, sở hữu điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng lý tưởng cho cây chè phát triển. Nhờ vậy, nước ta luôn nằm trong top 5 quốc gia có trữ lượng chè lớn nhất thế giới. Ngành chè Việt Nam đã và đang đóng góp quan trọng vào nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc.
Cây chè được trồng chủ yếu tại các tỉnh thuộc khu vực Trung du và miền núi phía Bắc (chiếm khoảng 70% diện tích chè cả nước), Tây Nguyên (khoảng 19%), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (7%) và Đồng bằng Bắc Bộ (4%). Nổi tiếng với những vùng chè lâu đời, chất lượng hảo hạng phải kể đến Thái Nguyên, Hà Giang, Phú Thọ, Lâm Đồng,...
Với lợi thế về sản xuất và tiềm năng thị trường, ngành chè Việt Nam cần tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
Chè cao cấp, chè hữu cơ, chè an toàn cần được đẩy mạnh sản xuất, chú trọng vào quy trình chế biến và đóng gói hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, cần tăng cường quảng bá thương hiệu chè Việt Nam ra thị trường quốc tế, tham gia các hội chợ, triển lãm chè uy tín để giới thiệu sản phẩm và kết nối với đối tác tiềm năng.
Với những định hướng chiến lược phù hợp và sự nỗ lực của các nhà sản xuất, ngành chè Việt Nam hoàn toàn có thể khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế, gia tăng giá trị xuất khẩu và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.