7 tháng năm 2024
Việt Nam nhập khẩu trên 450.000 tấn thịt và phụ phẩm động vật
Dự báo thịt nhập khẩu và các sản phẩm thịt sẽ không tăng đột biến Nhu cầu nhập khẩu thịt và sản phẩm thịt sẽ khó tăng đột biến 4 hiệp hội cùng kiến nghị ‘kiểm soát chặt sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu’ |
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, trong 7 tháng năm 2024, Việt Nam nhập khẩu trên 450.000 tấn thịt và phụ phẩm động vật dùng làm thực phẩm, tăng 6,4% (riêng đối với các sản phẩm thịt đạt trên 320.000 tấn, tăng trên 40%) so với cùng kỳ năm 2023.
Trong số đó, Ấn Độ là nước đứng đầu về xuất khẩu sản phẩm thịt (thịt và phụ phẩm ăn được của trâu) vào Việt Nam với số lượng trên 102.000 tấn, chiếm 25,3% lượng thịt và phụ phẩm xuất khẩu vào Việt Nam, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Việt Nam nhập khẩu trên 450.000 tấn thịt và phụ phẩm động vật dùng làm thực phẩm, tăng 6,4% . Ảnh: PH |
Tiếp đến là Mỹ với trên 53.000 tấn, chiếm 13,5% lượng thịt và phụ phẩm xuất khẩu vào Việt Nam, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm 2023.
Nga là nước đứng thứ 3, với trên 47.000 tấn, chiếm 11,7% và giảm 5,8% so với cùng kỳ năm 2023.
Đức là nước đứng thứ 4, với trên 30.000 tấn, chiếm 7,7% lượng thịt và phụ phẩm xuất khẩu vào Việt Nam, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Hàn Quốc đứng thứ 5, với trên 30.000 tấn, chiếm 7,57% lượng thịt và phụ phẩm xuất khẩu vào Việt Nam, tăng trên 1% so với cùng kỳ năm 2023.
Tính từ ngày Thông tư số 04 có hiệu lực (16/5/2024) đến ngày 25/9, đã phát hiện 55 lô hàng nhập khẩu dương tính với Salmonella (vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy, sốt... ) trên tổng số 6.679 lô hàng xét nghiệm Salmonella, chiếm gần 1%.
Như vậy nếu không xét nghiệm Salmonella, đã có một lượng lớn (trên 1.319 ngàn tấn) thịt động vật bị nhiễm Salmonella được nhập khẩu vào Việt Nam, nguy cơ rất cao gây ra dịch bệnh, mất an toàn thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng Việt Nam.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc kiểm dịch nhập khẩu đối với những lô âm tính thực hiện trong vòng 1-3 ngày; chỉ có khoảng 1% số lô sản phẩm động vật dương tính, cần nuôi cấy phân lập để khẳng định, cần 5-6 ngày làm việc theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Liên quan đến Thông tư 04, Cục Thú y - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có các cuộc họp trao đổi với Tham tán nông nghiệp và cán bộ của Đại sứ quán các nước Úc, New Zealand, Vương quốc Anh, Canada. Các nước này đều khẳng định không có vấn đề gì lớn.
Một số Tham tán nông nghiệp các nước Hoa Kỳ, Úc, Brazil, Singapore, Pháp, Hàn Quốc, Ý, Tây Ban Nha, Argentina, Đan Mạch và Hà Lan… bày tỏ quan ngại về việc ban hành Thông tư số 04 gây khó cho nhập khẩu thịt của các nước và đề nghị trao đổi, làm rõ quy định về kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật trên cạn.
Cục Thú y khẳng định, việc ban hành Thông tư đã tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế và không gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu trong thời gian vừa qua.
Theo Cục Thú y, các nước cũng có quy định rất chặt chẽ khi nhập khẩu các sản phẩm thịt, trứng, sữa của Việt Nam.
Trong khi đó, quy định của EU về các chỉ tiêu Salmonella, E.coli là không được có Salmonella spp trong 25g thịt; E.coli tổng số không vượt quá 102 đến 5.102 tùy loại sản phẩm.
Anh yêu cầu Việt Nam phải có Chương trình quốc gia giám sát Salmonella spp đối với các sản phẩm gà chế biến đang được đàm phán xuất khẩu sang nước này.
Hay Hàn Quốc cũng có yêu cầu tương tự về kiểm soát Salmonella spp.; Nhật Bản, Liên bang Nga và các nước Liên minh Á – Âu đã yêu cầu Việt Nam phải tổ chức kiểm soát Salmonella spp khi đàm phán, xuất khẩu thịt gà chế biến chín sang thị trường các nước này.
Trung Quốc yêu cầu phải tổ chức giám sát, xét nghiệm chỉ tiêu Salmonella spp khi xuất khẩu sữa sang thị trường nước này.
Singapore quy định không có Serotype chủng gây bệnh của Salmonella (Enteritidis; Pullorum, …) trong 25g; không có Serotype chủng gây bệnh của E.coli nhóm O (như O157) trong 25g thịt bò.
Trong nước, các doanh nghiệp, hiệp hội đều có các kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về kiểm soát chặt chẽ hàng nhập khẩu để bảo vệ chăn nuôi trong nước, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng trong nước.