Phương pháp mới nhất điều trị ung thư tuyến giáp
Ung thư tuyến giáp chỉ chiếm 1-2% trong tất cả các loại ung thư nhưng chiếm đến 90% ung thư của các tuyến nội tiết, ung thư tuyến giáp đứng hàng thứ 9 trong số các loại ung thư ở nữ giới.
Tuyến giáp là một tuyến nội tiết, nằm ở phần khí quản cổ, có 2 thùy phải và trái, nối với nhau bởi một eo tuyến giáp, có một phần tuyến giáp hình tam giác kéo từ eo tuyến giáp trên gọi là thùy tháp. Ung thư tuyến giáp là bệnh ác tính thường gặp nhất với tỷ lệ hơn 90% trong số các ung thư tuyến nội tiết.
Phương pháp mới nhất trong điều trị ung thư tuyến giáp |
Tại Việt Nam, ung thư biểu mô tuyến giáp đứng hàng thứ 6 trong các loại ung thư ở phụ nữ với tần suất mắc theo tuổi ở nữ giới là 5,6/100,000 dân, ở nam giới là 1,8/100,000 dân. Ung thư biểu mô tuyến giáp biệt hóa chiếm khoảng 90% các bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp và thường có tiên lượng tốt do bệnh tiến triển chậm, có thể phẫu thuật triệt căn và đáp ứng với điều trị I-131.
Những năm gần đây với sự phát triển của siêu âm chẩn đoán thì việc phát hiện ung thư tuyến giáp giai đoạn sớm ngày càng dễ dàng; có những trường hợp phát hiện được bệnh với khối u có kích thước dưới 5mm. Ung thư tuyến giáp loại tế bào biệt hóa tốt giai đoạn sớm có khả năng chữa khỏi cao. Do đó vấn đề phát hiện ung thư tuyến giáp ở giai đoạn sớm vô cùng quan trọng vì giúp gia tăng tỷ lệ chữa khỏi và hạn chế các di chứng, biến chứng của các phương thức điều trị (phẫu thuật, xạ trị).
Những phương pháp mới nhất trong điều trị ung thư tuyến giáp
Phẫu thuật
Phẫu thuật là cắt bỏ khối u và một phần mô lành xung quanh. Phẫu thuật còn được gọi là cắt bỏ, đây là phương pháp điều trị chính cho ung thư tuyến giáp. Tùy thuộc vào kích thước của nốt ung thư giáp, các phương pháp phẫu thuật thường dùng gồm:
Cắt thùy giáp: Cắt bỏ thùy tuyến giáp cùng với nốt ung thư.
Cắt tuyến giáp gần toàn bộ: Cắt bỏ hầu hết tuyến giáp chỉ để lại một phần nhỏ tuyến giáp.
Cắt toàn bộ tuyến giáp: Cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp
Có nhiều kĩ thuật phẫu thuật khác nhau có thể sử dụng cho phẫu thuật cắt tuyến giáp:
Cắt tuyến giáp chuẩn: Phẫu thuật viên rạch một đường nhỏ gần nền hoặc giữa cổ. Đường rạch cho phép phẫu thuật viên tiếp cận trực tiếp tuyến giáp của bệnh nhân để thực hiện phẫu thuật.
Cắt tuyến giáp nội soi: Trong kĩ thuật này, phẫu thuật viên rạch một đường nhỏ ở cổ. Phẫu thuật tương tự như phẫu thuật tuyến giáp chuẩn ngoại trừ có sử dụng dụng cụ nội soi và màn hình video để hướng dẫn thủ thuật.
Cắt tuyến giáp bằng robot: Phẫu thuật viên rạch một đường ở vị trí khác, ở nách, đường chân tóc ở cổ, hoặc ở ngực, và sau đó sử dụng một công cụ robot để thực hiện phẫu thuật tuyến giáp. Tuy nhiên cắt bỏ tuyến giáp bằng robot không phải là phẫu thuật được khuyến cáo.
Không phải tất cả các phương pháp phẫu thuật đều được khuyến cáo cho tất cả bệnh nhân. Vì thế bệnh nhân nên trao đổi với bác sĩ kĩ càng về phương pháp điều trị.
Nếu có bằng chứng hoặc nguy cơ di căn của ung thư đến các hạch bạch huyết vùng cổ, phẫu thuật viên cũng có thể tiến hành phẫu tích ở cổ. Đây là phẫu thuật để loại bỏ các hạch bạch huyết ở vùng cổ. Phẫu thuật này được gọi là phẫu thuật có vét hạch bạch huyết.
Nhìn chung, các biến chứng của phẫu thuật tuyến giáp có thể bao gồm tổn thương các tuyến cận giáp gần đó, tuyến có vai trò trong điều hòa nồng độ Calci máu, ngoài ra còn có nguy cơ chảy máu hoặc nhiễm trùng vết mổ. Nếu trong lúc phẫu thuật, các dây thần kinh chi phối cho thanh quản bị tổn thương thì có thể gây khàn giọng tạm thời hoặc vĩnh viễn hoặc chất giọng “thở”.
Nếu không có tuyến giáp, cơ thể ngừng sản xuất hormone tuyến giáp là hormone rất cần thiết cho chức năng của cơ thể. Điều trị hormone thay thế, thường uống thuốc hàng ngày, là giải pháp tốt nhất. Bệnh nhân cũng có thể phải bổ sung thêm vitamin D và canxi nếu chức năng tuyến cận giáp bị suy yếu sau phẫu thuật.
Nếu một khối u không thể loại bỏ được bằng phẫu thuật thì gọi là u không thể cắt bỏ. Bác sĩ sẽ đưa ra các phương pháp điều trị khác.
Điều trị hormone
Bệnh nhân được phẫu thuật thường cần điều trị hormone giáp. Bên cạnh mục đích dùng để thay thế hormone giáp cần thiết cho cơ thể, thuốc hormone giáp có thể làm chậm sự phát triển của bất kì tế bào ung thư biệt hóa còn lại sau phẫu thuật.
Hormone giáp thay thế là levothyroxine (Levothroid, Levoxyl, Synthroid, Tirosint, Unithroid, và các tên biệt dược khác). Levothyroxine thường được dùng hàng ngày vào cùng thời điểm trong ngày, để cơ thể được bổ sung hormone liên tục.
Các thuốc thay thế hormone giáp có thể có một vài tác dụng phụ. Đôi khi ở một số bệnh nhân phát ban hoặc rụng tóc trong tháng đầu tiên của điều trị.
Cường giáp là tình trạng có quá nhiều hormone giáp. Tìn trạng này có thể gây sụt cân, đau ngực, nhịp tim nhanh, nhịp tim không đều, đau bụng, tiêu chảy, cảm giác nóng, vã mồ hôi, loãng xương.
Thiểu năng giáp là tình trạng có quá ít hormone giáp. Thiểu năng giáp có thể gây mệt mỏi, tăng cân, da tóc khô, cảm giác lạnh. Nhu cầu về liều hormone giáp là khác nhau ở mỗi bệnh nhân và loại u, liều có thể thay đổi theo tuổi và cân nặng của bệnh nhân.
Xạ trị với đồng vị Iod phóng xạ
Tuyến giáp hấp thu gần như toàn bộ lượng iod đưa vào cơ thể. Vì vậy, một loại xạ trị sử dụng Iod phóng xạ là đồng vị I-131 (còn được gọi RAI: Radioactive Iodine) có thể tìm và phá hủy các tế bào tuyến giáp còn lại sau phẫu thuật, cái mà có thể lan rộng ra ngoài tuyến giáp.
Điều trị iod phóng xạ là một lựa chọn cho bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể nhú hoặc thể nang. Iod phóng xạ được sử dụng để điều trị cho những bệnh nhân thể biệt hóa đã lan tới hạch bạch huyết hoặc di căn xa. Một liều nhỏ thăm dò có thể được sử dụng trước khi điều trị đầy đủ để đảm bảo tế bào u sẽ hấp thu I-131. Bệnh nhân ung thư giáp thể tủy và ung thư giáp không biệt hóa không được điều trị với I-131.
I-131 được dùng ở dạng lỏng hoặc dạng viên nén. Bệnh nhân dùng I-131 để phá hủy tế bào u có thể phải nằm viện 2-3 ngày, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, gồm cả liều được sử dụng. Bệnh nhân được khuyến khích uống nhiều nước để giúp I-131 đi nhanh hơn trong cơ thể. Trong vòng một vài ngày, phần lớn phóng xạ được loại bỏ.
Xạ trị ngoài
Xạ trị ngoài là một loại khác của xạ trị, dùng tia X năng lượng cao từ một máy bên cơ thể để phá hủy tế bào ung thư.
Đối với ung thư giáp, xạ trị ngoài chỉ được sử dụng trong những trường hợp nhất định, thường là ung thư giáp giai đoạn muộn khi đã di căn tới những vùng trọng yếu của ở cổ như khí quản, thanh quản hoặc thực quản. Xạ trị thường được thực hiện sau phẫu thuật, tập trung vào một vùng cụ thể, để xạ trị chỉ tác động lên các tế bào ung thư ở vị trị này.
Hóa trị
Hóa trị sử dụng thuốc (hóa chất) để phá hủy tế bào ung thư, thường bằng cách làm ngừng sự phát triển và phân chia của tế bào ung thư.
Hóa trị toàn thân đưa hóa chất vào máu để đến tế bào ung thư toàn cơ thể. Mục đích của hóa trị là tiêu diệt tế bào u còn lại sau phẫu thuật, làm chậm sự phát tiển của khối u, hoặc để giảm các triệu chứng.
Điều trị trúng đích
Điều trị trúng đích là phương pháp điều trị nhắm vào các gen, protein hoặc các mô cụ thể mà chúng góp phần vào sự phát triển và sinh tồn của ung thư. Đây là loại điều trị ngăn chặn sự phát triển và lây lan của các tế bào ung thư trong khi hạn chế tổn thương cho các tế bào bình thường.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy không phải tất cả các khối u đều có các đích điều trị giống nhau. Để xác định phương pháp điều trị hiệu quả nhất, bác sĩ có thể cho làm các xét nghiệm để xác định các gen, protein và bản chất khối u. Điều này giúp các bác sĩ có chiến lược điều trị phù hợp hơn với từng bệnh nhân. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đang được thực hiện nhằm tìm ra những phân tử đích đặc hiệu trong từng loại ung thư tuyến giáp khác nhau và các phương pháp điều trị mới nhắm vào các phân tử đích đó.
Đối với ung thư tuyến giáp thể nhú và thể nang, FDA đã chấp nhận cho 2 liệu pháp nhắm trúng đích:
Năm 2013, FDA chấp nhận một liệu pháp điều trị trúng đích là thuốc sorafenib (Nexavar) cho giai đoạn muộn hoặc ung thư tuyến giáp biệt hóa thất bại với liệu pháp I-131. Tác dụng phụ thường gặp của sorafenid bao gồm: phản ứng ở da tay da chân hoặc vùng da khác, tiêu chảy, mệt mỏi, giảm cân, tăng huyết áp.
Năm 2015, FDA chấp nhận liệu pháp đích lenvatinib (Lenvima, E7080) cho ung thư tuyến giáp biệt hóa giai đoạn muộn khi thất bại với phẫu thuật, điều trị với I-131 hoặc cả 2. Tác dụng phụ thường gặp của lenvatinib bao gồm: tăng huyết áp, giảm ngon miệng, giảm cân nặng, buồn nôn.
Đối với ung thư tuyết giáp thể tủy (MTC), có 2 liệu pháp đích khác được FDA chấp nhận:
Năm 2011, FDA chấn nhận vandetanib viên nén (Caprelsa, zd6474), liệu pháp đích này được biết đến là loại ức chế tyrosine kinase. Cụ thể, hiện tại vandetanib là điều trị chuẩn cho đối tượng người trưởng thành khi mà bệnh nhân ung thư tuyến giáp thêt tủy không thể loại bỏ bởi phẫu thuật, nếu bệnh nặng hơn hoặc nếu đã di căn đến các cơ quan khác của cơ thể.
Thuốc được dùng hằng ngày. Liều điển hình của vandetanib là 300mg. Tác dụng phụ thường gặp: tiêu chảy, viêm đại tràng, nổi ban, buồn nôn, tang huyết áp, đau đầu, mệt mỏi, giảm ngon miệng và đau dạ dày. Thêm vào đó, nhiều tác dụng phụ lên tim và hô hấp có thể xảy ra. Có thể xét nghiệm thường xuyên nên làm như kali máu, calci, magie, và TSH để theo dõi tác dụng phụ của thuốc lên cơ thể.
Năm 2012, FDA chấp nhận liệu pháp ức chế tyrosine kinase khác cho bệnh nhân ung thư tuyết giáp thể tủy di căn với thuốc cabozantinib (Cometriq, Cabometyx, XL184). Liều dùng được khuyến cáo là uống 1 viên 140mg/ ngày, Tác dụng phụ có thể là táo bón, đau dạ dày, tăng huyết áp, thay đổi màu tóc, mệt mỏi, buồn nôn. Ngoài ra là một số vấn nghiêm trọng của đại tràng.
Hóa trị hoặc liệu pháp điều trị đích như là một phần kế hoạch điều trị
Tại thời điểm này, việc sử dụng hóa trị toàn thân và liệu pháp điều trị đích để điều trị ung thư tuyến giáp được quyết định dựa trên từng cá nhân và thường được đưa ra như là một phần của thử nghiệm lâm sàng.
Điều trị triệu chứng và tác dụng phụ
Điều trị ung thư thường gây ra tác dụng phụ. Ngoài việc điều trị nhằm làm chậm, ngừng hoặc loại bỏ ung thư, một phần quan trọng không kém là phần chăm sóc bệnh nhân ung thư nhắm làm giảm các triệu chứng và tác dụng phụ. Cách tiếp cận này được gọi là chăm sóc giảm nhẹ hoặc chăm sóc hỗ trợ, bao gồm hỗ trợ bệnh nhân với các nhu cầu về thể chất, tình cảm cảm xúc và các nhu cầu xã hội
Chăm sóc giảm nhẹ là biện pháp điều trị tập trung vào giảm nhẹ triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống, và hỗ trợ bệnh nhân và gia đình của họ. Bất kỳ cá nhân nào, bất kể tuổi tác hay chủng tộc và giai đoạn ung thư đều có thể được chăm sóc giảm nhẹ. Tốt nhất là bắt đầu sớm chăm sóc giảm nhẹ khi điều trị ung thư.
Mọi người bắt đầu điều trị ung thư cùng một lúc họ sẽ được điều trị giảm tác dụng phụ. Trong thực tế, bệnh nhân nhận bắt đầu cùng lúc cả 2 hướng điều trị này có triệu chứng ít nghiêm trọng hơn, chất lượng cuộc sống tốt hơn và các báo cáo cho thấy họ hài lòng với việc điều trị hơn.
Điều trị giảm nhẹ là lĩnh vực khá rộng, thường bao gồm thuốc, thay đổi chế độ dinh dưỡng, các kỹ thuật hỗ trợ thư giãn, hỗ trợ cảm xúc và các liệu pháp khác. Bạn cũng có thể nhận được phương pháp điều trị giảm nhẹ tương tự như những phương tiện để loại bỏ ung thư, chẳng hạn như hóa trị, phẫu thuật hoặc xạ trị.
Điều trị theo giai đoạn
Hầu như tất cả ung thư tuyến giáp đều được điều trị bằng phẫu thuật. Nếu ung thư tuyến giáp chỉ nằm trong các mô của cổ, cả ở tuyến giáp và trong các hạch bạch huyết, phẫu thuật thường sẽ là phương pháp điều trị đầu tiên. Bệnh nhân giai đoạn muộn cũng có thể được điều trị bằng phẫu thuật, nhưng các phương pháp điều trị khác có thể được thực hiện trước. Các thử nghiệm lâm sàng có thể được khuyến cáo ở bất kỳ giai đoạn nào như là một lựa chọn điều trị.
Liệu pháp hormon và liệu pháp iod phóng xạ chỉ được dùng cho ung thư tuyến giáp tế bào nhú, nang, và Hurthle. Các loại ung thư tuyến giáp khác không được điều trị bằng tuyến giáp iodine phóng xạ hoặc liệu pháp hormon tuyến giáp.
Giai đoạn I: Phẫu thuật, liệu pháp hocmon, liệu pháp Iot phóng xạ có thể sau phẫu thuật
Giai đoạn II: Phẫu thuật, liệu pháp hocmon, liệu pháp Iot phóng xạ có thể sau phẫu thuật
Giai đoạn III: Phẫu thuật, liệu pháp hocmon, liệu pháp Iot phóng xạ hoặc xạ trị ngoài có thể sau phẫu thuật
Giai đoạn IV: Phẫu thuật, liệu pháp hocmon, liệu pháp Iot phóng xạ, xạ trị ngoài, liệu pháp điều trị trúng đích, hóa trị. Xạ trị có thể sử dụng để giảm đau.