Giải pháp nào cho doanh nghiệp Việt tiến xa trong chuỗi cung ứng công nghiệp chế tạo
Tỷ lệ nội địa hoá thấp
Chế biến chế tạo là ngành công nghiệp xương sống của nền kinh tế. Trong bối cảnh khó khăn do dịch bệnh, ngành Công Thương nỗ lực triển khai nhiều giải pháp gỡ khó, tạo thuận lợi cho các ngành ổn định sản xuất. Theo số liệu từ Bộ Công Thương, 2 tháng đầu năm chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế tạo vẫn giữ được đà tăng trưởng với 6,1% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 5,2 điểm phần trăm vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp.
Một số sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo chủ lực tăng cao trong 2 tháng đầu năm, như: Quần áo mặc thường tăng 14,1%; ô tô tăng 12,2%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 11,8%; linh kiện điện thoại và xe máy cùng tăng 10,7%; thép cán tăng 10,5%...
Dù vậy, theo bà Trương Thị Chí Bình - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), tỷ lệ nội địa hoá trong ngành công nghiệp chế tạo không đồng đều và khá thấp. Trong 3 ngành công nghiệp chế tạo chính gồm cơ khí chế tạo, ô tô và điện tử, ngành công nghiệp cơ khí chế tạo, điển hình là sản xuất xe máy có tỷ lệ nội địa hoá cao với 93% cụm linh kiện nhựa, cao su, 90% cụm khung xe được sản xuất trong nước. Nguyên do, dù thị trường xe máy có dấu hiệu bão hoà nhưng số lượng xe đang vận hành trên thị trường khá lớn, do vậy cơ hội cho công nghiệp hỗ trợ xe máy (linh kiện thay thế) còn nhiều.
![]() |
Số lượng doanh nghiệp nội địa trở thành nhà cung cấp cho các tập đoàn chế tạo đa quốc gia tại Việt Nam không nhiều |
Công nghiệp điện tử là ngành mới, 10 năm trở lại đây Việt Nam có tên trên bản đồ xuất khẩu điện tử thế giới, điển hình là điện thoại và linh kiện điện tử. Kim ngạch xuất khẩu nhóm sản phẩm công nghiệp điện tử luôn đạt 2 con số/năm, có những năm lên tới 20%. Dù vậy, ngành công nghiệp điện tử hiện nhập khẩu gần 90% linh kiện, đặc biệt có linh kiện cơ bản lên tới 97%, linh kiện chuyên dụng 92%, linh kiện cơ khí 80%, linh kiện cao su 87%. Phần mua được từ nhà sản xuất trong nước tỷ lệ khá thấp.
Ngành công nghiệp ô tô trong nước hiện phải nhập khẩu khoảng 70% linh kiện, 20% được sản xuất trong các nhà máy sản xuất ô tô, chỉ 10% được mua tại Việt Nam. Lãnh đạo VASI cũng cho hay, số lượng nhà cung ứng Việt Nam trong chuỗi cung ứng công nghiệp ô tô khá ít với khoảng 84 doanh nghiệp cấp 1, 145 doanh nghiệp cấp 2-3. Các nhà cung ứng Việt Nam không chỉ cung cấp linh kiện cho sản xuất ô tô mà cả cho sản xuất xe máy. “So với Thái Lan con số nhà cung ứng của Việt Nam là rất thấp”, bà Bình nhấn mạnh.
Cũng theo bà Bình, trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam có nhiều lớp, trong đó doanh nghiệp FDI đầu tư nhiều vào lĩnh vực điện, điện tử, doanh nghiệp nội địa đầu tư vào cơ khí. Theo kết qủa nghiên cứu của Bộ Công Thương, doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, không chỉ công ty đa quốc gia mà cả công ty lớp dưới có xu hướng xuất khẩu động lực nội địa hoá thấp hơn với công ty hướng về thị trường trong nước, đặc biệt trong ngành công nghiệp điện tử. Bởi lẽ, linh kiện điện tử có thể nhập khẩu dễ dàng do kích thước nhỏ gọn, trái ngược với ngành cơ khí chế tạo và ô tô linh kiện cồng kềnh, nặng, chi phí nhập khẩu rất cao.
Gia tăng liên kết
Một số tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam đã phối hợp thực hiện các hoạt động liên kết giúp doanh nghiệp trong nước trở thành nhà cung cấp, tuy nhiên, số lượng thành công không nhiều. Theo kết quả khảo sát của VASI, hiện có khoảng 300 doanh nghiệp nội địa đang là nhà cung cấp cấp 1 (không chỉ cho Samsung, Canon, Sony… mà cả cho doanh nghiệp sản xuất máy nông nghiệp nhỏ) và phân bố chủ yếu ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Nguyên do, bản thân công nghiệp chế tạo là ngành khó, không dễ để thành công. Mặt khác, số doanh nghiệp trong ngành chế tạo của Việt Nam ít ỏi, doanh nghiệp thực sự chất lượng có thể kết với công ty đa quốc gia chỉ dưới 500 doanh nghiệp.
Một trở ngại nữa cho việc liên kết là vấn đề giá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam luôn cao hơn khoảng 20% so với các nhà cung cấp từ quốc gia khác. Do vậy, cắt giảm chi phí là điều kiện tối cần thiết để doanh nghiệp Việt Nam có thể bắt tay, trở thành nhà cung cấp cho các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Cùng đó, doanh nghiệp nội địa cũng cần liên tục cải tiến, đào tạo nhân lực; chủ động tìm kiếm khách hàng và liên kết.
“Những doanh nghiệp có hệ thống sản xuất đạt tiêu chuẩn 5S, Kaizen và cải tiến liên tục hoặc những công ty tách từ doanh nghiệp FDI có cơ hội liên kết dễ dàng hơn so với các công ty mới thành lập hoặc tay ngang”, đại diện VASI chia sẻ.
Ngoài ra, đại diện VASI cũng khuyến nghị: Chính phủ thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành, trong đó có việc cấp bù lãi suất tín dụng cho các dự án công nghiệp hỗ trợ 5%/năm; hỗ trợ vốn vay ưu đãi khi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp hỗ trợ tập trung để tạo cụm liên kết ngành; thu hút các dự án FDI gắn với phát triển nhà cung cấp nội đại trên cơ sở mức độ ưu đãi và hỗ trợ được hưởng.
Cùng đó, nâng cao năng lực của các doanh nghiệp nhỏ và vừa để đáp ứng yêu cầu của chuỗi cung ứng toàn cầu; thúc đẩy các tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp FDI tìm kiếm nhà cung cấp Việt Nam mới thông các chính sách khuyến khích về thuế, lao động, R&D; ưu tiên thu hút đầu tư FDI có định hướng rõ ràng về nội địa hoá.
Đọc nhiều

Infographic | Top 10 xe ô tô bán chạy nhất tháng 7/2025

Chà là tươi ‘nhuộm vàng óng’ chợ, hội chị em đua nhau lùng mua

Việt Nam - Campuchia: Tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư

7 tháng năm 2025, thị trường được 301.613 xe ô tô, tăng 10%

Infographic | Bán lẻ hàng hóa và tiêu dùng của Hà Nội tăng 11,9%

Chế độ bảo hành pin xe máy điện ở Việt Nam như thế nào?

Xuất khẩu rau quả Việt Nam phục hồi nhờ đa dạng thị trường

Từ gánh hàng rong đến khát vọng OCOP xuất khẩu

Kinh tế Việt Nam giữ đà tăng trưởng, chứng khoán lập đỉnh 3 năm
