Điều chỉnh chính sách thương mại trong kỷ nguyên số: Chú trọng chất lượng tăng trưởng
|
Cách mạng công nghệ số đã mở ra các cơ hội cho hàng triệu doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ tham gia vào thương mại qua biên giới, phát triển thành những người bán hàng đa quốc gia, và tự tạo ra chuỗi cung cấp toàn cầu của mình; cho phép các công ty ở mọi cấp độ sản xuất, di chuyển, giới thiệu sản phẩm và dịch vụ nhanh hơn ở mức chi phí thấp hơn. Người tiêu dùng và các công ty được tiếp cận với rất nhiều chủng loại hàng hóa và dịch vụ mà không cần trung gian trong chuỗi phân phối và bán lẻ.
Phương thức kinh doanh cũng đa dạng hơn, từ hàng hóa đóng và vận chuyển trong các container đến các kiện hàng nhỏ gửi bằng bưu điện, dịch vụ bán hàng trực tuyến, sản phẩm công nghệ và thiết kế được gửi trong các đám mây. Giao dịch thương mại trên toàn thế giới được tăng tốc làm biến dạng vai trò của thương mại và tăng trưởng ở các nước đang phát triển, khai phá hiệu quả các nguồn lợi, làm sâu sắc việc chuyên môn hóa, tăng xuất khẩu và quốc tế hóa các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ, đồng thời thúc đẩy năng suất và tăng trưởng.
Đông Nam Á là một khu vực có kết nối internet tăng vọt với sự gia tăng của điện thoại thông minh và thương mại điện tử, đã phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Tuy nhiên, các thách thức của việc biến những công nghệ mới thành tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển đang được đặt ra. Chẳng hạn như kết nối băng thông không đầy đủ và các kỹ năng thuộc về công nghệ thông tin và liên lạc (ICT), các vấn đề quy định và chính sách làm tăng chi phí của các công ty số hóa như chế độ trách nhiệm pháp lý và quy định về bảo mật thông tin cá nhân không chặt chẽ; hạn chế ứng dụng và sử dụng các công nghệ số của các doanh nghiệp nhỏ, ví dụ như thương mại điện tử hoặc thanh toán trực tuyến cũng như các thách thức kinh doanh thương mại truyền thống.
Các nhà hoạch định chính sách thương mại cần điều chỉnh công cụ chính sách cạnh tranh trong kỷ nguyên số, bao gồm thiết lập các luật lệ thương mại, thúc đẩy xuất khẩu, thuận lợi hóa thương mại, tín dụng xuất khẩu và cơ sở hạ tầng cho thương mại. Đặc biệt, các nước Đông Nam Á đều nhấn mạnh đến hợp tác khu vực là phương tiện để phát triển thương mại và tăng trưởng trong khi có sự khác biệt rất lớn giữa các nền kinh tế kết nối internet ở trình độ cao như Singapore và Malaysia với các nước như Campuchia, Lào, Myanmar.
Sau hơn 30 năm đổi mới ở Việt Nam, tăng trưởng kinh tế đã góp phần xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Trong giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng kinh tế giảm xuống bình quân là 5,8% so với mức 7,6% và 6,8% trong giai đoạn 1990-2000 và 2001-2010. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2005-2015, khu vực dịch vụ của Việt Nam lại tăng trưởng cao, chiếm 39,7% GDP năm 2015, lao động toàn ngành dịch vụ hơn 17,5 triệu người, chiếm 33,2% tổng lao động. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước nhập khẩu ròng dịch vụ với mức thâm hụt là 5,25 tỷ USD, tăng 28 lần trong giai đoạn 2005-2015.
Cùng với chuyển đổi cơ cấu nhằm tăng đóng góp của công nghiệp và dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã và đang tự do hóa ngành dịch vụ dưới nhiều hình thức hội nhập khu vực, chẳng hạn như Khung hiệp định về dịch vụ của ASEAN, thương mại dịch vụ ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc. Tuy nhiên, so với tự do hóa thương mại (bao gồm quy tắc xuất xứ, thủ tục hải quan, thuận lợi hóa thương mại) thì tự do hóa ngành dịch vụ vẫn còn khá khiêm tốn. Từ năm 2016, Việt Nam đã bước vào giai đoạn cải cách kinh tế mới hướng tới mô hình tăng trưởng bao trùm, hướng tới chuyển đổi cơ cấu, hội nhập toàn diện và tăng năng suất. Trước mắt, một số phân ngành dịch vụ mà Việt Nam chú trọng phát triển để thúc đẩy tăng trưởng là logistics, giáo dục, môi trường và tài chính.
Hiện nay, công nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn là các ngành thâm dụng lao động, tận dụng lợi thế dân số đang trong thời kỳ “dân số vàng”, lao động dồi dào. Trong giai đoạn phát triển tới, Việt Nam cần phải thay đổi để thế giới có cách nhìn mới về hàng hóa, dịch vụ và con người Việt Nam, để được biết đến là một “trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới”.
Việt Nam mong muốn chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng vào chất lượng tăng trưởng, dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, và chuyển từ cạnh tranh bằng giá rẻ, chi phí thấp sang cạnh tranh bằng nguồn nhân lực chất lượng cao, các thương hiệu có giá trị gia tăng cao. Việt Nam cần tiếp tục kết nối với ASEAN và các diễn đàn phát triển quốc tế để tập trung nghiên cứu mô hình chuyển đổi kinh tế, sử dụng các công cụ chính sách, đặc biệt là các chính sách thương mại và đầu tư phù hợp với xu thế quốc tế mới để phát triển kinh tế bền vững và bao trùm.
Kinh doanh cùng người có thu nhập thấp (IB) là một trong những ưu tiên của Philippines trong năm chủ tịch ASEAN 2017 và được các bộ trưởng công nhận là phương thức chính để khu vực tư nhân (300 triệu người có thu nhập thấp) tham gia đóng góp vào Tầm nhìn Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC 2025). Ủy ban điều phối doanh nghiệp nhỏ và vừa ASEAN (ACCMSME) đã xây dựng Kế hoạch hành động chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SAPSMED 2016-2025). Để tăng cường năng lực về IB, Trung tâm Dịch vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa ASEAN đã xây dựng mạng lưới hành động kinh doanh cùng người có thu nhập thấp (IBAN) kết nối các nguồn lực toàn cầu về IB.
Ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” nhằm tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ và mô hình kinh doanh mới. Trong tương lai, Bộ Công Thương với vai trò điều phối xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) cần phối hợp với các bộ, ngành để kết nối Đề án 844 với các nguồn lực của ASEAN xây dựng
mô hình quốc gia khởi nghiệp, hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững.