Các ngân hàng thế giới nói gì về việc hạ lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước?
Nền kinh tế đầu tiên ở Đông Nam Á nới lỏng chính sách tiền tệ
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều bất trắc, lạm phát neo cao, rủi ro bất ổn tài chính ngân hàng khiến ngân hàng trung ương các nước thận trọng hơn trong việc thắt chặt chính sách tiền tệ. Các tổ chức quốc tế cũng đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023: IMF (tháng 1/2023): 2,9%; WB (tháng 1/2023): 1,7%; trong khi dự báo lạm phát toàn cầu năm 2023 được điều chỉnh tăng: IMF (tháng 1/2023): 6,6% (trước đó dự báo 6,5%) và 4,3% năm 2024 (trước đó là 4,1%).
10 ngân hàng trung ương của 10 nền kinh tế phát triển lớn (Mỹ, Canada, New Zealand, Anh, khu vực Eurozone, Australia, Na Uy, Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ và Nhật Bản) đã nâng lãi suất tổng cộng hơn 30% trong chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh nhất từ trước đến nay. Trong đó, Nhật Bản là nền kinh tế duy nhất đứng ngoài cuộc.
Ngay cả trong bối cảnh khủng hoảng ngành ngân hàng Mỹ nổ ra, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vẫn quyết định nâng lãi suất lần thứ 9 liên tiếp tính tới tháng 3/2023, khiến lãi suất quỹ liên bang (fed funds rate) tăng lên mức 4,75-5%. Chủ tịch Fed, ông Jerome Powell đưa ra những phát biểu hàm ý rằng Fed có thể đang tiến gần tới đoạn kết của chu kỳ thắt chặt, nhưng ông vẫn nhấn mạnh: “Giảm lãi suất là chuyện không nằm trong kịch bản chính của chúng tôi” trong thời gian còn lại của năm 2023.
Trong khi đó tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước lại ban hành một loạt quyết định giảm các loại lãi suất điều hành. Trong đó, lãi suất tái cấp vốn giảm 0,5%; trần lãi suất huy động giảm 1%; lãi suất cho vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng cho một số lĩnh vực giảm 0,5%.
Tại buổi họp báo công bố Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á (ADO) tháng 4/2023, ông Andrew Jeffries, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cho biết, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2023 sẽ bị hạn chế do suy thoái kinh tế thế giới, chính sách tiền tệ tiếp tục thắt chặt ở các nước phát triển và tác động lan tỏa từ căng thẳng địa chính trị toàn cầu. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ tăng trưởng thông qua việc nới lỏng tiền tệ và khối lượng lớn đầu tư công kỳ vọng được giải ngân trong năm 2023, cùng với việc mở cửa trở lại của Trung Quốc, sẽ giúp Việt Nam đương đầu với những bất lợi này.
Còn về việc Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất điều hành, ông Andrew Jeffries nhận xét, Việt Nam đã đối mặt với những khó khăn, thách thức trong năm 2022 rất tốt. Việt Nam cũng có mức lãi suất tương đối là thấp so với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh các công cụ quản lý rất linh hoạt và thực hiện quản lý tỷ giá rất hiệu quả. Điều này đưa Việt Nam đến một vị trí thích hợp để có thể nới lỏng chính sách tiền tệ.
Chuyên gia của ADB nhận định, Việt Nam là nền kinh tế đầu tiên ở Đông Nam Á nới lỏng chính sách tiền tệ |
Ông Nguyễn Minh Cường, chuyên gia kinh tế trưởng ADB bổ sung thêm, hiện tại mặc dù Fed một mặt tăng lãi suất, nhưng mặt khác lại thực hiện cả nới lỏng định lượng (tức là bơm tiền ra). Trong khi đó, năm 2022, Fed vừa thắt chặt chính sách tiền tệ vừa thắt chặt định lượng. Có thể thấy được sự mâu thuẫn trong chính các quyết định của Fed khi cơ quan này đang đứng giữa ngã ba đường, lựa chọn giữa an toàn hệ thống hay kiềm chế lạm phát.
Vào thời điểm 2022, tất cả các ngân hàng trung ương đều có chung mục đích là kiểm soát lạm phát nên hành động của ngân hàng này có thể tác động tới các ngân hàng khác. Ngoài ra, với các nước như Việt Nam thì còn mục đích nữa là hạn chế tác động của việc đồng USD tăng giá sẽ gây lạm pháp, áp lực lên hoạt động nhập khẩu. Nhưng sang năm 2023, đã bắt đầu xuất hiện sự khác biệt trong mục đích.
Việt Nam đang phải đối mặt với 3 sức ép, sức ép thứ nhất là các yếu tố bên ngoài và những gió ngược. Sức ép thứ hai là về thị trường vốn, nguy cơ không kiểm soát được thị trường vốn. Cho dù nó rất nhỏ, nhưng nó đã lan sang ngành bất động sản, ngân hàng thì nguy cơ xảy ra rủi ro an toàn hệ thống là có thể xảy ra. Sức ép thứ ba là về mặt lao động khi hiện nay đang có sự sụt giảm rất mạnh với tỷ lệ thất nghiệp tăng.
Dòng vốn đang bị tắc nghẽn khiến cho lĩnh vực bất động sản và xây dựng chịu tác động rất mạnh khiến cho nguồn lao động trong ngành này bị ảnh hưởng. Việt Nam có số lượng lao động trong ngành xây dựng chiếm 9,26% tổng lực lượng lao động, có tỷ lệ cao nhất so với các nước trong khu vực. Ngoài ra, nguồn lao động trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là mảng công nghiệp, chế biến, chế tạo cũng bị ảnh hưởng mạnh bởi lượng đơn đặt hàng xuất khẩu sụt giảm, ông Cường chia sẻ.
Trước những sức ép lớn như vậy, theo ông Cường, rõ ràng mục đích của Việt Nam nên chuyển hướng nhanh sang hỗ trợ tăng trưởng nên việc Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất là rất hợp lý, điều này sẽ giúp hỗ trợ cho thị trường vốn và giải toả bớt các sức ép kể trên. Điều này cũng làm Việt Nam trở thành nền kinh tế đầu tiên ở Đông Nam Á nới lỏng chính sách tiền tệ.
Sẽ có thêm đợt giảm lãi suất trong quý II
Cũng bình luận về việc hạ lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng UOB (Singapore) cho rằng, động thái của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không gây bất ngờ do những thông báo đã đưa ra trước đó cũng như kết quả tăng trưởng GDP quý 1/2023 thấp hơn dự kiến.
Theo UOB, việc công bố giảm lãi suất tái cấp vốn 50 điểm (0,5%) xuống 5,5% vào ngày 31/3 và có hiệu lực từ ngày 3/4 là đợt cắt giảm lãi suất gần nhất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Với sự khởi đầu thấp trong quý 1/2023, UOB dự báo nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục duy trì chính sách nới lỏng hơn trong giai đoạn sắp tới, với việc tiếp tục cắt giảm lãi suất tái cấp vốn trong quý 2/2023. Điều này có nghĩa là lãi suất tái cấp vốn rất có thể sẽ giảm thêm 50 điểm cơ bản trước thời điểm cuối tháng 6/2023 để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trong nước.
“Mặc dù Ngân hàng Nhà nước thiên về chính sách nới lỏng hơn, nhưng điều này không có nghĩa là sự bắt đầu một chu kỳ cắt giảm lãi suất mạnh mẽ, ít nhất là tính đến thời điểm này”, UOB nhận định và cho rằng “Ngân hàng Nhà nước có khả năng sẽ thực hiện các đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo một cách thận trọng và cân nhắc; trong đó tập trung chủ yếu vào kiểm soát lạm phát”.
Về tỷ giá, UOB nhận định đồng VND vẫn là một trong những đồng tiền ổn định nhất ở châu Á. Bất chấp những thay đổi lớn trong kỳ vọng tăng lãi suất của Fed, lo ngại suy thoái kinh tế toàn cầu và tình trạng rối loạn của hệ thống ngân hàng Mỹ, đồng VND vẫn giao dịch trong biên độ hẹp 0,8% quanh mức 23.600/USD.
Bất chấp việc Ngân hàng Nhà nước đột ngột cắt giảm lãi suất 100 điểm cơ bản vào tháng 3/2023, sự phục hồi mạnh mẽ của xuất khẩu và sản xuất công nghiệp cùng với lạm phát giảm đã giữ ổn định cho đồng VND.
“Nhìn chung, chúng tôi kỳ vọng USD/VND sẽ nối gót các cặp tỷ giá ngoại hối USD/châu Á khác tiến tới mốc cao hơn là 24.200 trong quý 2/2023 trước khi giảm xuống 24.000 trong quý/2023, 23.800 trong quý 4/2023 và 23.600 trong quý 1/2024”, UOB dự báo.