Triển khai tuyến đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông
Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)
TEDI đã nghiên cứu và đề xuất phương án đến năm 2020 sẽ xây dựng các tuyến đường cao tốc từ Hà Nội đến Vũng Áng (Hà Tĩnh), từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Nha Trang và đoạn Đà Nẵng-Quảng Ngãi kết nối với Quốc lộ 19 tạo thành ba khúc cao tốc trên trục dọc hành lang kinh tế Bắc-Nam.
“Tiếp đó, năm 2015, Bộ Giao thông Vận tải giao nhiệm vụ cho TEDI nghiên cứu và lập đề án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ nối thông cao tốc Bắc-Nam phía Đông đoạn Hà Nội-Thành phố Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo tính kết nối toàn diện, phát huy hết hiệu quả của dự án. Mục tiêu số một của đề án là phải nối thông toàn tuyến chứ không đặt quy mô dự án lên trước,” ông Phạm Hữu Sơn chia sẻ.
Đánh giá về tính hiệu quả của trục cao tốc Bắc-Nam khi chạy dọc theo hướng Đông thay vì đi theo hướng tuyến của đường Hồ Chí Minh (hướng Tây), ông Phạm Hữu Sơn nhận định, mục tiêu của dự án đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông nhằm kết nối các trung tâm kinh tế trọng điểm, đầu mối giao thông quan trọng, tăng cường liên kết vùng để nâng cao năng lực vận tải trên hành lang Bắc-Nam và hỗ trợ vận tải tuyến Quốc lộ 1.
Trong khi đó, các trung tâm kinh tế trọng điểm, đầu mối giao thông quan trọng đều tập trung ở đồng bằng, ven biển, khu vực phía Đông trên trục động lực phát triển kinh tế Bắc-Nam. Do vậy, ông Sơn cho rằng, nếu lựa chọn hướng tuyến cao tốc Bắc-Nam đi theo đường Hồ Chí Minh, có thể tiết giảm chi phí giải phóng mặt bằng nhưng không đảm bảo hiệu quả đầu tư, bởi lưu lượng xe ít và không kết nối đồng bộ các trung tâm kinh tế trọng điểm, các đầu mối giao thông quan trọng với nhau.
Thực tế, trong quy hoạch cũng đã có 432km tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông đi theo trục đường Hồ Chí Minh từ Yên Lộc (Ninh Bình) tới Túy Loan (Đà Nẵng) để tận dụng tiết giảm chi phí.
Về quy mô và đề xuất cho việc đầu tư xây dựng trục cao tốc Bắc-Nam theo hướng Đông, ông Phạm Hữu Sơn cho biết, trên cơ sở nghiên cứu các phương án về quy mô, kinh phí đầu tư để đảm bảo phù hợp với nhu cầu vận tải, khả năng huy động vốn, phương án tài chính và hiệu quả đầu tư, TEDI đề xuất phân kỳ quy mô đầu tư.
Cụ thể, giai đoạn 1, đầu tư theo quy mô tối thiểu 4 làn hạn chế (17m) và giải phóng mặt bằng theo quy mô hoàn chỉnh, ngoại trừ hai đoạn Hà Nội-Vinh và Dầu Giây-Phan Thiết.
Theo số liệu tính toán của TEDI, hai đoạn này có lưu lượng vận tải rất lớn, dự báo đến năm 2020 sẽ đạt trên 30.000 xe/ngày đêm cần phải đầu tư ngay theo quy mô 4 làn hoàn chỉnh, nền đường rộng tối thiểu 22m, giải phóng mặt bằng theo quy mô 6 làn. Giai đoạn 2 đầu tư đúng theo quy hoạch với 6 làn xe hoàn chỉnh kỹ thuật.
Theo Bộ Giao thông Vận tải, hiện nay, trên tuyến cao tốc Bắc-Nam phía Đông đã có 4 dự án cao tốc được đưa vào khai thác dài 171km gồm Pháp Vân-Cầu Giẽ, Cầu Giẽ-Ninh Bình, Thành phố Hồ Chí Minh-Trung Lương và Thành phố Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây.
Bên cạnh đó, 4 dự án cao tốc khác với chiều dài 299km đang triển khai xây dựng gồm La Sơn-Túy Loan, Đà Nẵng-Quảng Ngãi, Bến Lức-Long Thành và Trung Lương-Mỹ Thuận.
Để thông tuyến cao tốc Bắc-Nam phía Đông đoạn Hà Nội-Thành phố Hồ Chí Minh theo quy mô tối thiểu 4 làn xe, cần tiếp tục đầu tư hoàn thành 1.372km.
Trong đề án TEDI xây dựng, dự án cao tốc Bắc-Nam phía Đông được thực hiện bằng hình thức PPP (hợp tác công-tư), tổng mức đầu tư khoảng 229.800 tỷ đồng; trong đó, dự kiến nguồn vốn nhà nước chiếm 40,7%.
Ông Phạm Hữu Sơn cho hay, cơ sở để đưa ra số liệu này là do các tổ chức nước ngoài nghiên cứu, cập nhật và công bố, không phải của riêng TEDI. Trên cơ sở lưu lượng xe dự báo, quy vào giá vé sẽ tính ra được phương án tổng mức đầu tư, số tiền nhà nước hỗ trợ đối với từng dự án.
Nói cách khác, lưu lượng xe chính là căn cứ đầu tiên để xác định số tiền hỗ trợ cụ thể của nhà nước với từng đoạn tuyến.
Dự án nào lưu lượng xe ít, thời gian hoàn vốn quá dài, nhà nước phải hỗ trợ nhiều và ngược lại.
Theo tính toán của TEDI, có những đoạn tuyến số tiền hỗ trợ của nhà nước lên tới 62%, tuy nhiên có những đoạn nhà nước chỉ phải tham gia khoảng 30%./.
Theo TTXVN/Vietnam +