Phát triển thị trường khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG): Mỏ vàng đang được…đánh thức
Điểm khởi đầu tạo nên “Hành trình năng lượng xanh”
LNG (Liquefied Natural Gas) là khí tự nhiên hóa lỏng, có thành phần chủ yếu là methane, được sản xuất bằng cách làm lạnh sâu khí thiên nhiên ở nhiệt độ khoảng âm 162 độ C để hóa lỏng, thể tích của LNG giảm khoảng 600 lần so với trạng thái khí dẫn đến chi phí xử lý, vận chuyển, tồn chứa cạnh tranh, đóng vai trò là một loại nhiên liệu đốt với hiệu suất cao. Quan trọng hơn, LNG khi đốt cháy tạo ra ít hơn 40% lượng khí thải CO2 so với than đá và ít hơn 30% so với dầu mỏ. Điều này đã cho thấy 2 lợi thế rất quan trọng của LNG là hiệu quả kinh tế và khả năng giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường.
Trong khi đó, Đảng và Nhà nước đang rất quan tâm và chú trọng tới phát triển kinh tế đất nước song song với hiện thực hóa những cam kết tại Hội nghị COP26, phấn đấu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Với đặc tính xanh, sạch, bền vững, thân thiện với môi trường, LNG được xác định chính là giải pháp năng lượng tối ưu của Việt Nam trong thời điểm này. LNG sẽ giúp giảm áp lực lên các nguồn khí nội địa, đa dạng hóa nguồn năng lượng, giảm thiểu rủi ro an ninh năng lượng, cũng như tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển thị trường LNG đang là lựa chọn cho tương lai trong bối cảnh bảo đảm an ninh năng lượng đang là yếu tố trong chuyển dịch năng lượng |
Nhận thức được tiềm năng và cơ hội của LNG đối với phát triển bền vững của đất nước đồng thời hiện thực hóa cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 về đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, nhập khẩu và tiêu thụ LNG. Và đơn vị được “chọn mặt gửi vàng” không ai khác chính là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) và cái tên “lĩnh xướng tiên phong” giao nhận trọng trách phát triển LNG là Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) với sứ mệnh tầm nhìn đến năm 2045.
Nhận thức rõ trọng trách xen lẫn tự hào, từ năm 2009, PV GAS đã ấp ủ và sau đó xây dựng hạ tầng để nhập khẩu LNG bằng công trình kho cảng LNG Thị Vải có công suất giai đoạn đầu là 1 triệu tấn/năm, dự kiến sẽ mở rộng lên 3 triệu tấn/năm. Đây là kho LNG đầu tiên tại Việt Nam đang sẵn sàng cho vận hành thương mại. Tổng công ty Khí Việt Nam cũng là đơn vị đầu tiên và duy nhất hiện tại đủ điều kiện xuất nhập khẩu LNG theo chứng chỉ của Bộ Công Thương.
Vượt qua tất cả với biết bao “sóng gió”, sau hơn 12 năm, ngày 10/7/2023, con tàu Maran Gas Achilles (quốc tịch Hy Lạp) chở gần 70.000 tấn LNG từ cảng Bontang - Indonesia đã về đến Kho cảng LNG Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu). Đây được xem là điểm khởi đầu đánh dấu cho sự hình thành, phát triển “năng lượng xanh” phục vụ cho phát triển bền vững.
Chuyến tàu lịch sử này có thể được xem là bước tiến mới của ngành năng lượng với mục tiêu đến năm 2030, nguồn điện từ LNG sẽ chiếm khoảng gần 15% tổng quy mô nguồn. Đồng thời đưa kho cảng LNG Thị Vải của PV GAS được ghi danh là tổ hợp LNG đầu tiên được đưa vào vận hành có quy mô lớn nhất và hiện đại nhất Việt Nam hiện nay. Được biết, dự án có mục tiêu bổ sung nguồn cung khí cho các khách hàng tiêu thụ, bao gồm nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và 4, các khách hàng công nghiệp và đáp ứng một phần lượng khí thiếu hụt trong nước sau năm 2023.
Dấu ấn của người lĩnh xướng tiên phong
Dự báo tiêu thụ năng lượng toàn cầu sẽ tăng 1,3% trong năm 2023, hơn ước tính tăng 0,9% của năm 2022. Tại Đông Nam Á - nơi có GDP chiếm khoảng 3,25% GDP toàn cầu, nhu cầu năng lượng đã tăng trung bình khoảng 3%/năm trong hai thập kỷ qua và xu hướng này sẽ tiếp tục đến năm 2030 (theo số liệu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế). Trong khi đó, giảm dần việc sử dụng năng lượng hoá thạch sang các nguồn năng lượng mới xanh hơn, sạch hơn cũng là xu hướng của không ít các quốc gia trên thế giới. Có những quốc gia trong khu vực ASEAN, thậm chí tỷ lệ điện năng được tạo ra từ khí đốt tự nhiên lên đến 70%.
Trên thế giới, Mỹ là quốc gia sản xuất điện khí lớn nhất trên thế giới. Vào năm 2022, Mỹ đã sản xuất được 1689 terawatt giờ điện. Con số này nhiều hơn gấp 3 lần quốc gia đứng thứ hai là Nga, quốc gia này tạo ra 479 terawatt giờ điện trong năm ngoái. Thứ ba là Nhật Bản với sản lượng 330 terawatt giờ điện.
Tại châu Âu, 20% lượng điện được sản xuất từ khí tự nhiên. Italy, Anh và Hà Lan là những nước chủ yếu sử dụng khí đốt tự nhiên để sản xuất điện. Còn tại Đông Nam Á, 3 nước gồm Brunei, Singapore và Thái Lan tạo ra hơn 70% điện năng từ khí đốt tự nhiên.
Sử dụng LNG phục vụ phát triển năng lượng được xem là "mỏ vàng" với rất nhiều tiềm năng |
Trong khi đó, tại Việt Nam Quy hoạch điện VIII đã xác định nguồn nhiệt điện khí tái hóa từ LNG (hay gọi tắt là “khí LNG”) chiếm tỷ trọng khoảng hơn 14,9% tổng công suất toàn hệ thống phát điện quốc gia vào năm 2030 và là một trong các nguồn giúp bảo đảm cung cấp đủ, ổn định và an toàn hệ thống điện quốc gia. Với nhu cầu như này, Việt Nam hiện đang được kỳ vọng sẽ trở thành nhà nhập khẩu lớn, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường LNG thế giới và đang được nhiều nhà cung cấp LNG quốc tế săn đón.
Tiến sĩ Mai Duy Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam nhận định, khí thiên nhiên lỏng LNG đã trở thành lựa chọn hàng đầu để giải quyết bài toán năng lượng và môi trường. Nguyên nhân nhờ vào đặc tính sạch, hiệu suất cao, tiết kiệm tài nguyên, phục vụ cho sự phát triển công nghiệp hàng đầu ở mọi quốc gia phát triển.
Tiềm năng rộng lớn được ví như “mỏ vàng” cho sự phát triển tương lai, với thế giới câu chuyện LNG không còn xa lạ nhưng với Việt Nam lại là một câu chuyện rất mới, chúng ta đi sau đâu đó khoảng hơn 60 năm.
Song đi sau không đồng nghĩa với việc “chỉ đứng đó để ngước nhìn” và càng không thể “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” mà đó là sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ hơn 10 năm trước. Nắm bắt xu thế, PV Gas đã có những bước đi đầu tiên để từng bước “đi tắt đón đầu”. Tại buổi tọa đàm về thị trường tiêu thụ LNG tại Kho cảng PV GAS Vũng Tàu (KCTV) – tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 9/11 mới đây, Phó Tổng giám đốc PV GAS Huỳnh Quang Hải đã có những chia sẻ về cả một chặng đường nỗ lực và gian khó để PV GAS thực hiện nhiệm vụ đưa LNG về phục vụ đất nước.
Được biết, hiện nay, giai đoạn 1 của Công trình Kho cảng LNG Thị Vải tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã hoàn thành và giai đoạn 2 sẽ sớm được triển khai nâng công suất lên 3 triệu tấn/năm. PV GAS cũng đang đầu tư xây dựng Kho cảng LNG Sơn Mỹ tại tỉnh Bình Thuận với công suất dự kiến khi hoàn thành giai đoạn 1 là 3,6 triệu tấn LNG/năm và nâng công suất lên đến 10 triệu tấn LNG/năm cho cả 2 giai đoạn. Trong tương lai, cơ sở hạ tầng LNG của PV GAS sẽ cơ bản đáp ứng nhu cầu năng lượng cho khu vực Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Ngoài ra, PV GAS sẽ tiếp tục xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng và hệ thống vận chuyển LNG theo mô hình “Kho cảng LNG trung tâm (LNG Hub) cung cấp nguồn khí tái hóa cho các Trung tâm Nhiệt điện khí vệ tinh trên toàn quốc” với cả 3 khu vực trọng yếu trong hệ thống năng lượng quốc gia (công nghiệp khí và công nghiệp điện) bao gồm: Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Bắc Bộ/Bắc Trung Bộ, sẽ kết nối đồng bộ với hệ thống đường ống vận chuyển khí tái hóa/hệ thống vận chuyển LNG đường biển và hệ thống cung ứng LNG (đường biển/sông, đường bộ) đến các hộ tiêu thụ/trung tâm điện lực.
Mỏ vàng của cơ hội, của tương lai đã được “đánh thức” bằng những tư duy mở lối tiên phong dám đương đầu với những trọng trách Tập đoàn giao phó, song PV GAS đang đứng trước những thách thức lớn về thời gian và vấn đề cơ chế chính sách trong quá trình phát triển chiến lược LNG, thực sự tạo nên “Hành trình năng lượng xanh” hiệu quả và đột phá.
Con tàu nhập khẩu LNG đầu tiên của Việt Nam do PV Gas đưa về đã cập cảng Thị Vải đánh dấu mốc quan trọng cho "Hành trình năng lượng xanh" |
Các chuyên gia kinh tế cũng đã nhìn nhận, với bất cứ một quốc gia nào quá trình đưa một dạng năng lượng mới vào luôn cần có thêm cơ chế chính sách. Hiện tại, chúng ta chưa có những cơ chế, quy định cho việc định giá và tiêu thụ khối lượng LNG nhập khẩu của các nhà máy điện trong nước. LNG là 1 nhiên liệu đốt phục vụ sản xuất điện và giá điện được nhà nước điều tiết nên giá LNG sẽ phải tham chiếu theo những quy định cơ quan quản lý ban hành, đây cũng là thông lệ của tất cả các quốc gia phát triển trên thế giới.
Chia sẻ về những khó khăn, Tổng giám đốc PV GAS Phạm Văn Phong cho rằng, LNG là sản phẩm mới và khá là xa lạ ở Việt Nam, nên với vai trò là người đi tiên phong, PV GAS đã gặp rất nhiều các khó khăn và trở ngại trong việc đưa LNG về Việt Nam và cũng sẽ khó khăn tương tự như thế trong việc đưa LNG ra thị trường bởi hiện nay các cơ chế chính sách cho việc tiêu thụ chưa xây dựng xong. Trong Quy hoạch điện VIII, đặt mục tiêu đến năm 2030 điện khí sẽ chiếm khoảng 28% tổng nguồn phát điện trong cả nước, để đạt được mục tiêu này thì chắc chắn phải tập trung và phải sớm xây dựng các cơ chế chính sách, đặc biệt là các cơ chế để đảm bảo LNG có thể là một nguồn nhiên liệu bổ sung để phát điện.
“Với vai trò và trách nhiệm của mình, PV GAS đã và đang tham gia tích cực cùng với các Bộ ban ngành liên quan trong việc xây dựng các cơ chế chính sách. Chúng tôi cũng cung cấp rất nhiều các thông tin, tài liệu về các cơ chế chính sách mà các quốc gia trên thế giới đang áp dụng cho LNG” – ông Phạm Văn Phong chia sẻ.
Hy vọng trong thời gian ngắn sắp tới chúng ta sẽ xây dựng được khung pháp lý cả về mặt kỹ thuật, cũng như về mặt cơ chế chính sách để cho ngành công nghiệp LNG có thể phát triển mạnh mẽ góp phần tăng cường sự ổn định năng lượng.