PGS.TS Ngô Trí Long: Gỡ nút thắt, tạo đột phá cho ngành Công Thương năm 2024
Những ngày cuối của năm 2023, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024, để nhìn lại một chặng đường đã qua đồng thời xây dựng kế hoạch, giải pháp bứt phá cho năm mới.
Nhằm mang tới cái nhìn tường tận hơn về những kết quả đã đạt được, cũng như nhận diện một cách thấu đáo, đầy đủ, toàn diện những khó khăn, hạn chế và nút thắt của ngành Công Thương trong năm 2023, từ đó đưa ra những ý kiến xây dựng, giải pháp, Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long.
PGS.TS Ngô Trí Long, một trong những chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam |
- Ngày 20/12 vừa qua, tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024, Bộ Công Thương đã có báo cáo chi tiết về những kết quả đạt được trong năm vừa qua. Theo ông, đâu là những điểm sáng nổi bật của ngành Công Thương trong năm vừa qua? Ông đánh giá thế nào về những kết quả này?
PGS.TS Ngô Trí Long: Tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ ngành Công Thương năm 2023 đã được Thứ trưởng Phan Thị Thắng trình bày rất rõ trong báo cáo tại Hội nghị vừa diễn ra. Ở đây, tôi xin được nhắc lại một số điểm sáng. Trước hết, giá trị gia tăng ngành công nghiệp ước cả năm tăng 2,98%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo ước tăng 3,48%, đóng góp tích cực cho sự phục hồi của nền kinh tế.
Đây được xem là minh chứng cho lời khẳng định của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà về việc ngành Công Thương đang tiên phong đi đầu với hai trụ cột là công nghiệp và thương mại để đổi mới và phát triển đất nước.
Đáng chú ý, trong năm 2023, Việt Nam đã tích cực tranh thủ cơ hội từ sự phục hồi của các thị trường lớn, truyền thống để đẩy mạnh xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 ước đạt 683 tỷ USD, trong đó xuất khẩu ước đạt 354,5 tỷ USD, nhập khẩu ước đạt 328,5 tỷ USD.
Cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp với mức thặng dư ước đạt gần 30 tỷ USD, tăng gần gấp 3 lần năm 2022, góp phần tích cực cho cán cân thanh toán, giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
Một điểm sáng nữa là thị trường trong nước tăng trưởng cao, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tăng 9,6%, vượt kế hoạch đề ra (8 - 9%). Theo tôi, đây không chỉ là trụ đỡ cho tăng trưởng của nền kinh tế trong bối cảnh sản xuất công nghiệp và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn mà còn góp phần đáp ứng cơ bản nhu cầu hàng hóa thiết yếu cho người dân và kiểm soát lạm phát trong bối cảnh nhiều quốc gia đối mặt với lạm phát tăng cao.
Về đánh giá kết quả, trên thực tế, Bộ Công Thương cũng nhìn nhận rằng, mặc dù có nhiều điểm sáng nhưng kết quả toàn ngành đâu đó vẫn còn nhiều điểm chưa được như mong đợi. Nhưng theo tôi, đặt trong bối cảnh năm 2023 vốn nhiều thách thức, cũng là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 5 năm 2021-2025, những kết quả nói trên là đáng ghi nhận, cho thấy nỗ lực cao độ của ngành Công Thương.
- Không thể phủ nhận ngành Công Thương trong năm vừa qua vẫn còn một số điểm chưa được như mong đợi. Vậy, đâu là những điểm hạn chế còn tồn tại, theo ông?
Thẳng thắn mà nói, trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, hạn chế là không thể tránh khỏi và bản thân Bộ Công Thương cũng đã nhìn nhận rất rõ những điều này. Thứ nhất, sản xuất công nghiệp trong năm vừa qua phục hồi còn chậm, các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, chi phí đầu vào, chi phí vốn, chi phí tuân thủ còn cao.
Thứ hai, mức độ phụ thuộc vào khu vực FDI trong xuất khẩu vẫn còn lớn.
Thứ ba, tăng trưởng thương mại nội địa tuy cao nhưng chưa bằng mức tăng trưởng các năm trước khi xảy ra đại dịch Covid-19.
Thứ tư, cung ứng điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân còn nhiều bất cập, có thời điểm đã phải điều hòa phụ tải và tiết giảm điện ở một số địa bàn.
- Nguyên nhân dẫn tới những tồn tại, hạn chế nêu trên từ đâu, thưa ông?
Theo tôi, những tồn tại, hạn chế nêu trên bắt nguồn từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Về khách quan, mặc dù đại dịch Covid-19 đã đi qua, nhưng những hệ luỵ mà nó để lại vẫn còn dai dẳng. Rõ ràng, ảnh hưởng nặng nề của đại dịch cần thời gian đủ dài để tích lũy, phục hồi. Trong khi đó, nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, năng lực nội tại, sức chống chịu, khả năng thích ứng còn hạn chế, lại đang trong quá trình phát triển và chuyển đổi nên những tồn tại kéo dài từ trước chưa thể khắc phục triệt để.
Chưa kể, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm; nhiều quốc gia, trong đó có các đối tác thương mại lớn của nước ta tăng trưởng chậm lại, tiềm ẩn nhiều rủi ro; lạm phát tuy đã hạ nhiệt nhưng vẫn neo ở mức cao dẫn đến nhiều nền kinh tế lớn duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cao, nhu cầu suy giảm, tác động trực tiếp tới các quốc gia có độ mở kinh tế lớn như Việt Nam...
Về chủ quan, phải nhìn nhận thẳng thắn rằng, ngành Công Thương vẫn đang trong quá trình xử lý những bất cập trong ban hành chính sách. Mặc dù bước đầu đã khắc phục tình trạng chậm trình trong phát hành các văn bản theo thẩm quyền, nhưng số lượng văn bản cần thiết chưa ban hành còn khá lớn.
Phải thấy rằng, đây là vấn đề hết sức quan trọng cần phải giải quyết, xử lý khẩn trương, dứt điểm. Nếu chất lượng chính sách không có sự đổi mới, sáng tạo và được nâng cao chất lượng, chúng ta không thể hiện được vai trò dẫn dắt kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi ngành năng lượng "từ nâu sang xanh" và không tận dụng được xu thế hội nhập.
- Liệu rằng những khó khăn mà ông vừa chỉ ra có tiếp tục kéo dài sang năm 2024 hay không?
Có thể nói, những khó khăn đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 vừa qua gần như sẽ chuyển tiếp và kéo dài sang năm 2024. Đặc biệt, sự cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên mạnh mẽ, khốc liệt hơn. Do đó, nếu không có sự chủ động, chúng ta sẽ không thể bắt kịp những xu thế lớn của thời đại và phải đối diện với nguy cơ bị đẩy ra khỏi cuộc chơi.
Điều này đòi hỏi ngành Công Thương phải quyết liệt tháo gỡ nút thắt,những điểm nghẽn thực hiện những biện pháp mang tính chất đột phá, để tìm cơ hội trong thách thức mới .
- Theo ông, để góp phần trong việc tăng tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước năm 2024 lên mức 6 - 6,5%, ngành Công Thương cần có những giải pháp gì?
Như tôi vừa chia sẻ, thời gian tới, cạnh tranh thương mại sẽ trở nên hết sức mạnh mẽ, khốc liệt. Do đó, việc thu hút đầu tư phải đưa ra được tiêu chí cụ thể để lựa chọn được các ngành công nghiệp đáp ứng được các yêu cầu của nền kinh tế.
Do đó, Chính phủ và Bộ Công Thương cần xem xét hoàn thiện thể chế, chính sách, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cũng như cách tiếp cận với các phương thức cạnh tranh và phòng vệ thương mại một cách khoa học, theo thông lệ quốc tế
Công nghiệp hiện nay chủ yếu đang phụ thuộc vào khối FDI. Các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn như công nghiệp công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp năng lượng, năng lượng xanh... rõ ràng còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, xem xét.
Bên cạnh đó, xuất khẩu phụ thuộc FDI là quá nhiều, nhưng chúng ta lại chưa đánh giá được trong FDI có bao nhiêu là chuyển giao công nghệ. Đây là vấn đề mà ngành Công Thương cân nhắc kỹ lưỡng, xem lựa chọn lĩnh vực nào để thu hút FDI.
Nếu tới đây thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp bán dẫn, thì làm sao phải nắm bắt được công nghệ trong chuỗi để có thêm giá trị gia tăng, chứ không thể chỉ dừng lại ở mức độ gia công như các lĩnh vực sản xuất giày dép và may mặc được.
Một vấn đề nữa đó là việc tận dụng các ưu đãi từ các FTA của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, mà theo tôi chỉ đang đạt khoảng 30%. Do đó, trong thời gian tới, để tận dụng FTA một cách có hiệu quả, doanh nghiệp Việt cần chủ động trong vấn đề tìm hiểu cơ chế, chính sách, thị trường, những rào cản thương mại… lấy đó làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần chủ động trong xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường.
Về phía Chính phủ, cần rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách, để xuất và trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung, kịp thời thông qua một số đạo luật quan trọng như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ Môi trường, Bộ luật Lao động và một số luật về thuế, để phù hợp với các quy định của FTA.
Cuối cùng, một vấn đề vô cùng quan trọng đó là năng lượng. Theo tôi, trong năm 2024, Bộ Công Thương chủ động xây dựng kế hoạch, biện pháp, không để xảy ra thiếu nguyên, nhiên vật liệu như xăng dầu, khí đốt, điện hay các nguồn năng lượng sơ cấp khác.
Bởi lẽ, vấn đề năng lượng ảnh hưởng rất nhiều đến an ninh quốc gia cũng như thương hiệu, môi trường đầu tư của Việt Nam. Việc thiếu nhiên liệu sẽ là rào cản trong quá trình thu hút đầu tư và thương mại.
Cũng cần nói thêm rằng, trong vấn đề năng lượng, trở ngại lớn nhất đối với việc đầu tư vào năng lượng tái tạo tại Việt Nam là vấn đề liên quan tới chính sách, pháp lý và cơ chế giá... Giá là điểm nghẽn, là rào cản đối với quá trình thu hút đầu tư trong lĩnh vực năng lượng điện.
Tôi cho rằng, cơ chế giá có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự đầu tư và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, nhiệt điện khí.. Việc chưa ban hành khung giá điện cho các dự án năng lượng tái tạo, điện khí, coi là “điểm nghẽn” là nút thắt, là rào cản lớn nhất để phát triển nguồn năng lượng này.
Theo tôi, chính sách giá năng lượng tái tạo chuyển tiếp sẽ là tiền đề để Bộ Công Thương có cơ sở đánh giá cũng như điều chỉnh khung giá cho các dự án năng lượng tái tạo mới một cách hợp tình, hợp lý. Để hiện thực hóa mục tiêu Quy hoạch Điện VIII về điện khí, những vấn đề bất cập, tôn động cũng cần được xử lý, giải quyết một cách thấu đáo.
Với những cam kết mạnh mẽ trong COP26 của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Việt Nam cần có chính sách, khung pháp lý minh bạch, ổn định, đặc biệt là chính sách giá, tính đúng, tính đủ, tính kịp thời sát giá thị trường, đủ hấp dẫn nhưng vẫn mang tính cạnh tranh, dài hạn và thu hút các nhà đầu tư có đầy đủ năng lực tham gia vào lĩnh vực này.
Cám ơn ông!