Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022:
Ngân hàng Nhà nước không nới thêm “room” tín dụng, duy trì ở mức 14%
Không tăng thêm và cũng không giảm
Tham gia thảo luận bàn tròn tại phiên toàn thể trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế - Xã hội 2022 chiều 18/9, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho biết, về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, năm nay Ngân hàng Nhà nước đưa ra mục tiêu từ đầu năm là 14%. Mức này cao hơn năm 2020 - 2021, lần lượt 12,17% và 13,61%.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà |
Trong điều hành chính sách tiền tệ nói chung, Ngân hàng Nhà nước phải giải bài toán với nhiều yếu tố khác nhau, mục tiêu đặt ra là kiểm soát lạm phát, đồng thời đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo thanh khoản cho các thị trường tiền tệ, ngoại hối. Các biến số như lãi suất, tỉ giá đều được đưa vào bài toán tổng thể này.
Trong năm 2022, tình hình thế giới rất phức tạp và khó lường, chưa từng có tiền lệ, rủi ro của các nền kinh tế, hệ thống tài chính, ngân hàng là rất lớn, kìm hãm lạm phát là ưu tiên hàng đầu của nhiều nền kinh tế lớn.
Nhiều ngân hàng trung ương của nhiều nước trên thế giới đã chần chừ do đánh giá lạm phát là tạm thời do đứt gãy chuỗi cung ứng, tuy nhiện lạm phát kéo dài hơn dự kiến cho thấy vấn đề thực sự phức tạp hơn, các ngân hàng trung ương đã tăng nhanh lãi suất, dẫn đến nguy cơ suy thoái.
Trước bối cảnh đó, Ngân hàng nhà nước đã gặp nhiều khó khăn trong điều hành và đã sử dụng nhiều biện pháp để ổn định thị trường tiền tệ, ổn định lãi suất. Tuy nhiên, áp lực lạm phát còn lớn và kéo dài, còn nhiều áp lực trong việc kìm hãm lạm phát trong năm 2023 sắp tới, nên Ngân hàng Nhà nước hết sức chú trọng công tác này.
Ông Phạm Thanh Hà nhấn mạnh, về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong hơn 10 năm qua, biện pháp hành chính đã thể hiện được sự hiệu quả trong ổn định hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.
“Trước năm 2011, tăng trưởng tín dụng rất cao, ở mức trên 30%. Trong 10 năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức 12 - 14%” - ông Hà nói.
Theo Phó Thống đốc, để tăng trưởng kinh tế, cần nhiều nguồn vốn khác nhau, không chỉ là tín dụng ngân hàng, mà bản thân nền kinh tế cần có vốn, chủ thể đầu tư. Các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế gồm cổ phiếu, trái phiếu, đầu tư công, nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần khơi thông đầy đủ các kênh vốn này.
Trong nhiều năm trở lại đây, áp lưc tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao. Sau 10 năm, quy mô nền kinh tế tăng 2,7 lần; quy mô tín dụng tăng 4,4 lần. Năm nay, Ngân hàng nhà nước đã tính toán mức tăng trưởng tín dụng hỗ trợ cho phát triển kinh tế khoảng 14%, là mức cao hơn hai năm trước. Trong bối cảnh nhiều biến động và thách thức, Ngân hàng Nhà nước vẫn cố gắng để đạt được mức cao này.
“Ngân hàng Nhà nước đã tính toán và để mức tăng trưởng tín dụng là 14%, không tăng thêm và cũng không giảm, đồng thời khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay hết room đó" - ông Hà nhấn mạnh.
Tham gia thảo luận, TS.Võ Trí Thành - nguyên Phó Viện trưởng CIEM cho biết, việc lựa chọn chính sách tiền tệ và tài khóa trong trạng thái kinh tế lạm phát cao, rủi ro vĩ mô lớn, sản xuất đình trệ là rất phức tạp, khó khăn thách thức. Nhà hoạch định chính sách đứng trước cả hai nguy cơ là lạm phát và suy thoái.
“Phần lớn các nước đã lựa chọn hy sinh tăng trưởng để kìm hãm lạm phát bằng các biện pháp thắt chặt, tăng lãi suất. Trong tình hình này, Việt Nam đã có lựa chọn khác, vừa thúc đẩy phục hồi, vừa ổn định kinh tế vĩ mô” - ông Thành đánh giá.
Về chính sách tiền tệ, TS.Võ Trí Thành cho rằng con số 14% là hợp lý về cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Nếu nới lỏng hơn thì áp lực lên tỉ giá còn lớn, gây áp lực lên lãi suất, tạo nguy cơ chảy máu vốn.
“Tăng tín dụng của Việt Nam lên 14% không phải quá nới lỏng, nhưng cũng không phải thắt chặt, tỉ lệ tín dụng trên GDP là 124% - mức rất rủi ro, nhưng các hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã tăng vốn để đảm bảo an toàn. Đó sẽ là cơ sở để tính toán mức tăng tín dụng hợp lý” - TS.Võ Trí Thành nói.
Ông Thành đề xuất Chính phủ cần vận dụng chính sách tiền tệ linh hoạt hơn nữa, tập trung vào sản xuất kinh doanh, hạn chế các lĩnh vực rủi ro, kiểm soát chặt chẽ phần đầu tư cho trung, dài hạn, để bổ sung cho một số lĩnh vực kinh doanh phù hợp tùy theo chu kỳ kinh doanh của ngành.
Giữ ổn định tỉ giá tiền đồng
Nhìn vào chỉ số dự báo thị trường, chỉ số thị trường tương lai cũng như các chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), GS. Andreas Hauskrecht - Đại học Indiana (Mỹ) đánh giá, dự kiến tăng lãi suất trong những tháng cuối năm 2022 và 2023. Khi FED thay đổi chính sách tiền tệ, khả năng cao FED sẽ tạo suy thoái ở Mỹ. Điều này cũng tác động đến kinh tế Việt Nam, nhất là tỉ giá Việt Nam đồng/USD.
Thảo luận bàn tròn tại phiên toàn thể trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế - Xã hội 2022 chiều 18/9 |
“Dự báo đồng Việt Nam sẽ tăng mạnh so với đồng Euro và các đồng tiền khác, khi đó, Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề thanh toán, ảnh hưởng nhất đến giá trị xuất nhập khẩu” - GS. Andreas Hauskrecht nêu. Trên cơ sở đánh giá tình hình quốc tế và bối cảnh của Việt Nam, GS.Andreas Hauskrecht kiến nghị Việt Nam không nên giảm giá đồng Việt Nam bởi điều này có thể gây bất ổn tài chính.
Ông Andreas Hauskrecht cũng đề xuất Việt Nam không nên tăng lãi suất hay sử dụng các công cụ tài chính mà nên sử dụng các chính sách tài khóa an toàn.
Đồng quan điểm, TS. Trương Văn Phước, nguyên quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Việt Nam cũng cho rằng, Việt Nam phải giữ cho bằng được ổn định tỉ giá. “Đây là “phòng tuyến sông Cầu”, nếu vỡ phòng tuyến này thì lạm phát sẽ tràn vào” - ông Phước nói và nhấn mạnh, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã làm tốt việc giữ tỉ giá trung tâm khoảng 0,6 và cho thị trường dao động trong biên độ cộng trừ 3%.