Xuất khẩu thịt gia cầm đã có dấu hiệu hồi phục trở lại Việt Nam xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt đến 35 thị trường Hồng Kông (Trung Quốc) chiếm 51% xuất khẩu thịt của Việt Nam |
Theo thống kê sơ bộ từ số liệu Cục Hải quan Việt Nam (Bộ Tài chính), tháng 01/2025, Việt Nam xuất khẩu 1,2 nghìn tấn thịt và các sản phẩm thịt, trị giá 8,54 triệu USD, giảm 33,6% về lượng và giảm 9% về trị giá so với tháng 01/2024.
![]() |
Tháng 01/2025, Việt Nam xuất khẩu 1,2 nghìn tấn thịt và các sản phẩm thịt, trị giá 8,54 triệu USD. Ảnh minh họa |
Trong tháng 01/2025, Việt Nam xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt tới 16 thị trường, trong đó Hồng Kông (Trung Quốc) là thị trường xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt lớn nhất của Việt Nam. Thị trường này chiếm 69,45% về lượng và chiếm 72,82% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước, đạt 861,6 tấn, trị giá 6,22 triệu USD, giảm 7,8% về lượng, nhưng tăng 8,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông (Trung Quốc), chủ yếu vẫn là thịt lợn sữa nguyên con đông lạnh và thịt lợn nguyên con đông lạnh.
Sau thị trường Hồng Kông (Trung Quốc), trong tháng 01/2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt giảm tới nhiều thị trường cả về lượng và trị giá như: Trung Quốc, Bỉ, Pháp, Canada, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Malaysia, Hà Lan…
Tháng 01/2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam chủ yếu gồm các chủng loại như thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 65,3% về lượng và chiếm 71,49% về trị giá; thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 18,85% về lượng và chiếm 10,84% về trị giá; thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 14,98% về lượng và chiếm 16,85% về trị giá; các chủng loại khác chiếm 0,86% về lượng và chiếm 0,82% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam trong tháng 01/2025.
Thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh vẫn là chủng loại được xuất khẩu nhiều nhất, với lượng đạt 810,1 tấn, trị giá 6,1 triệu USD, giảm 24% về lượng giảm 2,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hồng Kông (Trung Quốc) giảm 14,9% về lượng, nhưng tăng 5,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Tiếp theo xuất khẩu sang các thị trường như Singapore, Malaysia, Campuchia đều giảm so với cùng kỳ năm 2024.