Những câu chúc Tết hay, ấm áp và ý nghĩa năm 2024 Tết Giáp Thìn nên chọn ngày nào khai trương, mở cửa hàng |
![]() |
Nhà tiền đường chùa Dâu |
Mặc dù hội chính của chùa Dâu phải sang tháng Tư Âm lịch nhưng cứ Tết đến, ngôi chùa cổ kính này lại đón dòng khách nườm nượp khắp nơi tìm về.
Giữa vùng di tích lịch sử đậm đặc của vùng Kinh Bắc xưa nói chung và huyện Thuận Thành (nay là thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) nói riêng, chùa Dâu vẫn nổi lên như một di tích nổi bật bao gồm giá trị lịch sử văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật cũng như những giao lưu kinh tế, văn hoá Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên.
Chùa Dâu còn có tên là chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự. Một số tư liệu lịch sử được ghi lại cho thấy, chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226 mặc dù những hiện vật gốc không còn lại đến ngày nay.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê. Đây cũng là nơi duy nhất trên cả nước thờ trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
Chùa Dâu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc.
Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
![]() |
Tháp Hòa Phong tại chùa Dâu |
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành, được cho là do đích thân trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho khởi dựng. Sáu tầng trên của tháp đã không còn, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu được tạc từ đá nguyên khối dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thuở dựng chùa mặc dù không có tài liệu nào ghi lại là hiện vật gốc của chùa.
![]() |
Tượng Bà Dâu tại chùa Dâu- một bảo vật quốc gia (Ảnh: bacninhtv.vn) |
Năm 2012, chùa Dâu đã được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Cùng đó tượng Bà Dâu của chùa- một trong 4 pho tượng trong hệ thống tượng tứ pháp vùng Dâu -Luy Lâu được công nhận là bảo vật quốc gia.
Phong cách kiến trúc và các bức tượng được tạo tác tại chùa Dâu tuy mang phong cách dân dã nhưng lại ẩn trong đó một chiều sâu đáng kinh ngạc về sự tiếp biến văn hoá Việt Nam nói chung và Phật giáo nói riêng khiến cho du khách mỗi lần đến chùa lại có thêm những chiêm nghiệm mới. So với nhiều ngôi chùa ở miền Bắc, chùa Dâu là một trong số ít các ngôi chùa vẫn duy trì các nhóm tượng thờ theo phong tục tín ngưỡng thờ tự của Phật giáo thời Lê, đó là tín ngưỡng thờ tự các tượng: Tứ trấn, Hộ pháp, Kim cương, Thập điện Diêm vương, Phật và Bồ tát, các vị La hán...
Với ý nghĩa là cầu cho mưa thuận gió hòa, cầu cho một năm sản xuất nông nghiệp được bội thu, lễ hội chùa Dâu được tổ chức vào ngày 8 tháng 4 âm lịch. Đây cũng chính là ngày đản sinh của Đức Phật. Lễ hội có nhiều nghi thức sinh hoạt dân gian và nhiều trò diễn xướng phong phú, hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách thập phương, tín đồ, tăng, ni phật tử đến dâng hương, dự hội.
Đây không chỉ là lễ hội Phật giáo lớn mà còn là một trong những lễ hội có tuổi đời xa xưa nhất của vùng Bắc Bộ còn được duy trì đến ngày nay, qua đó thể hiện nét đẹp, giá trị văn hóa về đời sống tín ngưỡng của một vùng đất cổ xưa còn để lại.