Công bố Quyết định thành lập VVMI năm 2011. |
Đây là tổng công ty thứ 3 thuộc TKV cổ phần hóa trong năm 2015. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại VVMI vào thời điểm ngày 31/3/2014 được xác định là 1.002 tỷ đồng. Theo kế hoạch tái cơ cấu, VVMI sẽ phát hành thêm 4.600.000 cổ phần để nâng vốn điều lệ sau cổ phần hóa lên 1.050 tỷ đồng. Cơ cấu cổ phần dự kiến sau cổ phần hóa Nhà nước tiếp tục nắm giữ 75% (78.750.000 cổ phần, tương ứng 787,5 tỷ đồng); cán bộ, công nhân của VVMI được mua đãi 3,45% (3.626.500 cổ phần, tương ứng 36,2 tỷ đồng); bán ra ngoài cho các nhà đầu tư công chúng là 21% (22.623.500 cổ phần, tương ứng 226,2 tỷ đồng).
Trong phiên IPO ngày 27/5 tới đây, VVMI sẽ bán đấu giá công khai cho các nhà đầu tư bên ngoài hơn 22,6 triệu cổ phần với giá khởi điểm 10.300 đồng/cổ phần, tương đương 21,55% vốn điều lệ sau cổ phần hóa.
Là doanh nghiệp hoạt động mũi nhọn trong lĩnh vực khai thác than, VVMI hiện được giao quản lý và khai thác các sản phẩm than cám, than nâu từ 3 mỏ than lộ thiên là Mỏ than Núi Hồng (huyện Đại Từ, Thái Nguyên), Mỏ than Khánh Hòa (huyện Phú Lương, Thái Nguyên) và Mỏ Na Dương (huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn). Ba mỏ than do VVMI được giao quản lý và khai thác chiếm khoảng 2/3 tổng trữ lượng của thềm than nội địa, công suất trung bình đạt từ 400.000 – 800.000 tấn/năm.
Trong 3 năm vừa qua, hoạt động sản xuất than đã tạo ra giá trị doanh thu cho VVMI từ 1.441 tỷ - 1.723 tỷ đồng/năm, chiếm 66% doanh thu thuần. Sản phẩm than của VVMI có thị trường thuận lợi về địa lý, khách hàng là những nhà máy có ở gần các mỏ than như: Nhà máy Nhiệt điện Na Dương, Cao Ngạn, An Khánh; Nhà máy Xi măng La Hiên, Quán Triều và Tân Quang. Ngoài các khách hàng trên, phần sản phẩm than còn lại được VVMI tiêu thụ vào các hộ trọng điểm sản xuất công nghiệp và phục vụ dân sinh trong địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Hà Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ...
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của VVMI đạt lợi nhuận sau thuế 3 năm vừa qua (2012 – 2014) lần lượt là 11 tỷ đồng, 8 tỷ đồng và 60,5 tỷ đồng; hệ số ROE lần lượt đạt 1,7%, 1,3% và 8,6%. Năm 2014, lợi nhuận sau thuế của VVMI tăng đột biến chủ yếu do hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn; thu hỗ trợ, đền bù giải phóng mặt bằng và được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp do được khấu trừ từ khoản lỗ thuế.
Sau khi cổ phần hóa, VVMI dự kiến đầu tư mở rộng nâng công suất Mỏ than Khánh Hòa và Na Dương lên 1,2 triệu - 1,4 triệu tấn than/năm, duy trì công suất Mỏ than Núi Hồng 400.000 tấn than/năm. Trong giai đoạn 2016 - 2018, VVMI đặt mục tiêu đạt doanh thu lần lượt là 2.404 tỷ đồng, 2.478 tỷ đồng và 3.353 tỷ đồng; trong đó, lợi nhuận sau thuế lần lượt đạt 24,3 tỷ đồng; 50,5 tỷ đồng và 104,2 tỷ đồng, tỷ lệ trả cổ tức trong 3 năm tới là 2%, 4% và 8%.